I. Bối cảnh lịch sử 1939 - 1945
1. Tình hình chính trị
- Ngày 1/9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Pháp đầu hàng Đức, thực hiện chính sách thù địch với các lực lượng tiến bộ.
- Ở Đông Dương, Pháp tăng cường vơ vét để phục vụ cho chiến tranh.
- Tháng 9/1940, Nhật vượt biên giới Việt - Trung vào miền Bắc Việt Nam, Pháp nhanh chóng đầu hàng. Pháp - Nhật cấu kết vơ vét, bóc lột nhân dân Việt Nam.
- Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp => Các đảng phái chính trị tăng cường hoạt động, quần chúng sẵn sàng vùng lên khởi nghĩa.
2. Tình hình kinh tế
- Chính sách của Pháp:
- Chính sách của Nhật:
3. Tình hình xã hội
- Đời sống của các tầng lớp nhân dân khổ cực, bần cùng. Cuối 1944, đầu 1945 có gần 2 triệu người chết đói.
- Nhiều cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật diễn ra.
II. Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9/1939 đến tháng 3/1945
1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939
- Hoàn cảnh: Tháng 11/1939, họp tại Bà Điểm (Hóc Môn) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
- Nội dung Hội nghị:
- Ý nghĩa: Đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng của Đảng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước.
2. Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5/1941
- Hoàn cảnh:
- Nội dung Hội nghị:
- Ý nghĩa: Hoàn chỉnh chủ trương được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo để thực hiện mục tiêu ấy.
2. Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
a. Lực lượng chính trị
- Vận động quần chúng tham gia Mặt trận Việt Minh.
- Xây dựng các Hội Cứu quốc.
- Năm 1943, Đảng đưa ra bản "Đề cương văn hóa Việt Nam".
- Năm 1944, Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam và Đảng dân chủ Việt Nam ra đời, đứng trong Mặt trận Việt Minh.
b. Lực lượng vũ trang
- Đội du kích Bắc Sơn thành lập.
- Thành lập các Trung đội Cứu quốc quân I, II, III.
- Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập.
- Ngày 15/5/1945, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân hợp thành Việt Nam Giải phóng quân.
c. Căn cứ địa
- Bắc Sơn - Võ Nhai và Cao Bằng là hai căn cứ địa đầu tiên của Việt Nam.
- Tháng 6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, Tân Trào là Thủ đô Khu giải phóng.
II. Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
1. Khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945)
a) Hoàn cảnh
- Thế giới: Đầu 1945, Đức, Nhật thất bại nặng nề.
- Đông Dương: Tối 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương.
b) Chủ trương của Đảng
Ngày 12/3/1945, chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”:
- Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật.
- Thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng “Đánh đuổi phát xít Nhật”.
- Hình thức đấu tranh: từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
- Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa.
c) Diễn biến chính
- Căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng: đập tan chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng.
- Tại Bắc Kì và Trung Kì: phong trào “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
- Ở Quảng Ngãi: tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy giành chính quyền cách mạng, tổ chức đội du kích Ba Tơ.
- Ở Nam Kì: phong trào phát triển mạnh, đặc biệt là ở Mĩ Tho và Hậu Giang.
d) Ý nghĩa
Tạo tiền đề trực tiếp cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
2. Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa
- Ngày 20/4/1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kì quyết định thành lập Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kì.
- Ngày 16/4/1945, Ủy ban Dân tộc giải phóng dân tộc Việt Nam và Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp được thành lập.
- 15/5/1945, Việt Nam Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thống nhất thành Việt Nam Cứu quốc quân.
- 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, bao gồm hầu hết các tỉnh Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà và một số vùng các tỉnh lân cận. Tân Trào được chọn làm thủ đô Khu giải phóng. Ủy ban lâm thời Khu giải phóng được thành lập.
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
a) Hoàn cảnh
- Tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào những ngày cuối.
- Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện.
=> Thời cơ xuất hiện (vì lúc này quân Đồng minh chưa vào Đông Dương giải giáp phát xít Nhật).
b) Chủ trương của Đảng
- Ngày 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa Toàn quốc được thành lập. Đến 23h, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ra “Quân lệnh số 1”, phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
- Từ 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc họp, thông qua kế hoạch Tổng khởi nghĩa, quyết định chính sách đối nội và đối ngoại.
- Từ 16 đến 17/8/1945, Đại hội quốc dân ở Tân Trào tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
c) Diễn biến, kết quả
- Từ 14/8, nhiều địa phương đã phát động nhân dân khởi nghĩa.
- Chiều 16/8, Việt Nam Giải phóng quân giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu Tổng khởi nghĩa.
- Ngày 18/8, Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành chính quyền.
- Tối 19/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội
- Ngày 23/8, nhân dân Huế giành được chính quyền.
- Ngày 25/8, khởi nghĩa giành thắng lợi tại Sài Gòn.
- Ngày 28/8, khởi nghĩa giành thắng lợi trong cả nước.
- Ngày 30/8, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chế độ phong kiến ở Việt Nam sụp đổ hoàn toàn.
IV. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập
- Ngày 25/8/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng từ Tân Trào tiến về Hà Nội.
- Ngày 28/8/1945, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập.
V. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám 1945
1. Nguyên nhân thắng lợi
a. Chủ quan
- Dân tộc ta có truyền thống yêu nước nồng nàn.
- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo.
- Đảng có quá trình chuẩn bị suốt 15 năm.
- Toàn Đảng, toàn dân nhất trí, quyết tâm giành độc lập tự do, linh họat, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
b. Khách quan
Chiến thắng của Đồng minh trong chiến tranh chống phát xít cổ vũ tinh thần, niềm tin và tạo thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa.
2. Ý nghĩa lịch sử
a. Đối với Việt Nam
- Phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp - Nhật, lật nhào ngai vàng phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỉ nguyên độc lập, tự do, kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội.
- Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành một Đảng cầm quyền, chuẩn bị điều kiện cho những thắng lợi tiếp theo.
b. Đối với thế giới
- Góp phần vào chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
- Cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng, có ảnh hưởng trực tiếp và rất to lớn đến cách mạng ở hai nước Miên và Lào.
3. Bài học kinh nghiệm
- Đảng có đường lối đúng đắn, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, nắm bắt tình hình thế giới và trong nước để đề ra chủ trương, biện pháp cách mạng phù hợp.
- Tập hợp, tổ chức các lực lượng yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở khối liên minh công nông.
- Kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang, tiến hành khởi nghĩa từng phần, chớp thời cơ phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
Cách mạng tháng 8/1945 thành công đã đưa Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập tự do và dân chủ.
Từ những thành quả của Cách mạng tháng 8, Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên mới, giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ, đổi mới và xây dựng đất nước ngày càng phát triển giàu mạnh.
Theo SGK Lịch sử 12 trang 114, ngày 4/6/1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, bao gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận. Tân Trào được chọn làm Thủ đô Khu giải phóng.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Ngày 2/9 trở thành ngày Quốc khánh của nước ta.
Giai đoạn khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945) của cách mạng Việt Nam còn được gọi là cao trào kháng Nhật cứu nước.
Trong cao trào kháng Nhật cứu nước (từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945), trước thực tế nạn đói đang diễn ra trầm trọng ở Bắc Kỳ và Trung Kì do chính sách cướp bóc của Nhật - Pháp, Đảng đề ra khẩu hiệu "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói". Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách của nông dân, tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có.
Ngày 22/8, Việt Minh thông báo họ đã cướp được chính quyền và gửi công điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Bảo Đại tuyên bố chấp nhận thoái vị, từ bỏ ngai vàng và trở thành công dân Vĩnh Thụy. Ngày 30/8/1945, hàng mấy vạn người tụ tập trước Ngọ Môn Lâu xem nhà vua thoái vị, ông tuyên bố "Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ". Sau đó công dân Vĩnh Thụy trao ấn, kiếm cho đại diện Việt Minh Trần Huy Liệu và được gắn huy chương, vua Bảo Đại chính thức thoái vị. Sự kiện này đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ phong kiến ở Việt Nam.
Ngày 19/8/1945, nhân dân ta đã giành được chính quyền ở Hà Nội.
Tháng 11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Môn - Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Tại Hội nghị, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đề Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận phản đế Đông Dương) thay cho Mặt trận Đông Dương.
Trong cao trào kháng Nhật cứu nước (từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945), ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ đã nổi dậy, lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức đội du kích Ba Tơ.
Việt Nam Giải phóng quân là tên gọi của lực lượng quân sự chủ lực của Việt Minh từ tháng 5 đến tháng 9/1945. Ngày 15/4/1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa, Bắc Giang quyết định hợp nhất Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Lễ hợp nhất được tổ chức ngày 15/5/1945 tại Chợ Chu (Thái Nguyên).
Sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập (2/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị chấn chỉnh, mở rộng và đổi tên Việt Nam Giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn, sau đó lại đổi thành Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Tháng 11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Môn - Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn thực dân đế quốc và địa chủ phản bội, chống tô cao, lãi nặng.
Thời cơ của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam xuất hiện khi Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện và kết thúc khi quân Đồng minh vào Việt Nam giải giáp phát xít Nhật.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong đó có câu “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy...”.
Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là những địa phương giành được chính quyền muộn nhất trong cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, vào ngày 28 - 8.
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Người chủ trì Hội nghị lần thứ 8 BCH TW Đảng tại Pác Bó. Hội nghị xác định hình thái của cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và nhấn mạnh: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ năm 1939 và Pháp là một bên tham chiến, do đó sự kiện này có ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam vì Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp.
Mĩ phát động Chiến tranh lạnh từ năm 1947 với sự kiện mở đầu là thông điệp của Tổng thống Truman tại Quốc hội Mĩ.
Chiến tranh lạnh được tuyên bố chấm dứt năm 1989 và thực sự chấm dứt năm 1991.
Trật tự hai cực Ianta sụp đổ năm 1991.
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (thành lập ngày 28/8/1945) được cải tổ từ Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành Đảng cầm quyền hợp pháp khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam giành thắng lợi.
Cách mạng tháng Tám năm 1845 ở Việt Nam thắng lợi hoàn toàn với sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập – khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp và ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Chỉ thị đã thay thế khẩu hiệu "Đánh đuổi Pháp - Nhật" thành "Đánh đuổi phát xít Nhật".
Sáng ngày 19/8/1945, cả Thủ đô vùng dậy, dưới rừng cờ đỏ sao vàng, bừng bừng khí thế, kéo đến họp mít tinh ở quảng trường Nhà hát Lớn, nghe lời kêu gọi của ủy ban khởi nghĩa Hà Nội. "Đồng bào rầm rập kéo tới Quảng Trường Nhà hát Lớn dự mít tinh do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Đại biểu Việt Minh đọc Tuyên ngôn, Chương trình của Việt Minh và kêu gọi nhân dân giành chính quyền. Bài hát Tiến quân ca lần đầu tiên vang lên".
Khẩu hiệu "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói" được đề ra ở Bắc Kì và Trung Kì ngay sau chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Trung ương Đảng. Vậy chỉ thị này nằm trong cao trào kháng Nhật cứu nước từ tháng 3 đến tháng 8/1945.
Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc đãchọn Cao Bằng làm địa điểm xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 22 - 12 - 1944 tại khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám thuộc huyện Nguyên Bình - Cao Bằng. Quân số ban đầu gồm 34 người (có 3 nữ), chia thành 3 tiểu đội, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, đồng chí Hoàng Sâm được chọn làm đội trưởng; Xích Thắng( Dương Mạc Thạch) làm chính trị viên, Hoàng Văn Thái phụ trách tình báo và kế hoạch tác chiến. Với vũ khí ban đầu có 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp nhưng ngay sau khi thành lập đội đã đánh thắng hai trận đầu tiên ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Sau 2 trận này, quân số tăng lên thành đại đội, Hoàng Sâm làm đại đội trưởng, còn Xích Thắng làm chính trị viên.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 - 1939 đề ra khẩu hiệu thành lập Chính phủ dân chủ cộng hòa thay thế cho khẩu hiệu thành lập chính quyền Xô viết công nông binh trước đó.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) đã xác định kẻ thù của nhân Việt Nam là
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) đã xác định kẻ thù của nhân Việt Nam là thực dân Pháp và phát xít Nhật.
Sự kiện đánh dấu thời cơ cách mạng để Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước là phát xít Nhật đầu hàng Đồng Minh không điều kiện (15/8/1945).
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5-1941 đã xác định hình thái của cách mạng là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa.
Để xây dựng lực lượng chính trị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945goài quần chúng nhân dân, Đảng còn tăng cường công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương đấu tranh chống phát xít.
Chiều 16/8/1945, theo lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, một đơn vị Quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
Ngay sau khi Nhật đàu hàng đồng minh, không khí cách mạng đã sục sôi trên cả nước. Quần chúng nhân dân đã sẵn sàng đứng lên tổng khởi nghĩa, các đội vũ trang đã được thành lập ở các tỉnh lị đã sẵn sàng hành động. Ngày 18/8/1945, lực lượng khởi nghĩa ở Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành chính quyền. Đây là 4 địa phương giành chính quyền sớm nhất trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Theo SGK Lịch sử 12 trang 112, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Bản chỉ thị đã nhận định: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, song những điều kiện Tổng khởi nghĩa chưa chín muồi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương.
Những tỉnh giành chính quyền tỉnh lị sớm nhất trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 13/8/1945, được tin Nhật đàu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Đến 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
Vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, bọn phát xít liên tiếp gặp thất bại trên chiến trường, quân đồng minh chuyển sang tổng phản công trên khắp các mặt trân, giờ phút thất bại của phe phát xít đang đến gần. Quân Nhật ở châu Á cũng liên tiếp gặp thất bại trên chiến trường châu Á - Thái Bình Dương. Quân Pháp ở Đông Dương đang ngấm ngầm chờ thời cơ quân đồng minh tiến vào sẽ nổi dậy lật đổ quân Nhật giành lại quyền độc chiếm Đông Dương. Quân Nhật biết rõ âm mưu đó của quân Pháp nên đã nhanh tay hành động trước. Vào 20h ngày 9/3/1945, Nhật bất ngờ làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp, Pháp chống cự yếu ớt và đầu hàng nhanh chóng. Ngay khi nghe tin, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", trong đó khẩu hiệu ''Đánh đuổi Nhật - Pháp'' được thay bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật".
Vậy
Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5/1941) xác định hình thái của cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và nhấn mạnh : chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân.
Xem thêm các bài tiếp theo bên dưới