I. Cách mạng khoa học – công nghệ
1. Nguồn gốc
- Đòi hỏi của cuộc sống và sản xuất, nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
- Sự bùng nổ dân số, tài nguyên cạn kiệt, ô nhiễm môi trường,… => đặt ra những yêu cầu mới đối với khoa học - kĩ thuật.
2. Đặc điểm
- Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học.
- Khoa học là nguồn gốc chính của những tiến bộ kĩ thuật và công nghệ.
3. Các giai đoạn phát triển
- Giai đoạn 1: Đầu những năm 40 - đầu những năm 70.
- Giai đoạn 2: sau khủng hoảng năng lượng 1973 đến nay, được gọi là cách mạng khoa học - công nghệ.
4. Tác động
- Tích cực: Tăng năng suất lao động, nâng cao mức sống của con người; dẫn đến thay đổi lớn về cơ cấu dân cư, chất lượng nguồn nhân lực; đòi hỏi phải đổi mới giáo dục và đào tạo nghề.
- Tiêu cực: ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông, dịch bệnh, vũ khí hủy diệt,…
II. Xu thế toàn cầu hóa
1. Thời gian xuất hiện
Từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh.
2. Bản chất
Là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
3. Biểu hiện
- Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.
- Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia.
- Sự sát nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn.
- Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.
4. Tác động
- Tích cực
+ Thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và xã hội hóa của lực lượng sản xuất.
+ Đưa lại sự tăng trưởng cao.
+ Góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế, đòi hỏi phải tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
- Tiêu cực
+ Làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước.
+ Làm mọi mặt hoạt động và đời sống con người kém an toàn.
+ Nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc, xâm phạm nền độc lập tự chủ của các quốc gia,…
Sau hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc, sự ra đời và phát triển của Liên minh châu Âu (EU) đã thể hiện khát khao hòa bình, hợp tác và thịnh vượng của các nước Châu Âu. Sau hơn 60 năm hình thành và phát triển, EU hiện là tổ chức kinh tế - chính trị lớn nhất thế giới.
Khác với cuộc cách mạng công nghiệp thế kỉ XVIII, trong cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại, mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học.
Một hệ quả quan trọng của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ (từ năm 1973 đến nay) là trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa.
Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật ngày nay đã phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất những năm 40 đến nửa đầu những năm 70 ; giai đoạn hai sau cuộc khủng hoảng năm lượng 1973 đến nay. Cuộc cách mạng công nghệ trở thành cốt lõi của cách mạng khoa học - kĩ thuật nên giai đoạn thứ hại đã được gọi là cách mạng khoa học - công nghệ.
Một trong những biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa xuất hiện từ những năm 80 của thế kỉ XX là sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.
Như vậy, sự xuất hiện của Ngân hàng Thế giới (WB), Liên minh châu Âu (EU), Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) là biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa.
Mặt tích cực của xu thế toàn cầu hóa: sự thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh của việc phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao, góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế, đòi hỏi tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
Giai đoạn thứ hai của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần hai được gọi là Cách mạng khoa học công nghệ là do công nghệ trở thành cốt lõi. Cuộc cách mạng chủ yếu diễn ra về công nghệ với sự ra đời của thế hệ máy tính, điện tử, vật liệu mới, về những dạng năng lượng mới và công nghệ sinh học, phát triển tin học...
Liên minh châu Âu (EU) là tổ chức liên kết kinh tế - chính trị khu vực. Các tổ chức còn lại đều là tổ chức quân sự.
Trong cuộc cách mạng - khoa học kĩ thuật hiện đại, mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học. Vì vậy, khoa học trở thành nguồn gốc chính của những tiến bộ kĩ thuật và công nghệ nửa sau thế kỉ XX.
Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại diễn ra do những đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, nhất là trong tình hình bùng nổ dân số thế giới và sự vơi cạn nghiêm trọng các nguồn tài nguyên thiên nhiên…
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối thập kỉ 90, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế tăng cao (12 lần). Điều này có nghĩa là nền kinh tế các nước trên thế giới có quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng.
"Quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, dân tộc trên thế giới" là bản chất của xu thế toàn cầu hóa.
Những đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại:
- Đặc điểm lớn nhất của cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại là khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học.
- Khoa học gắn liền với kĩ thuật, khoa học đi trước mở đường cho kĩ thuật, kĩ thuật đi trước mở đường cho sản xuất.
- Khoa học tham gia trực tiếp vào sản xuất, trở thành nguồn gốc chính của những tiến bộ kĩ thuật và công nghệ.
Trong giai đoạn thứ hai, cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại diễn ra chủ yếu về công nghệ với sự ra đời của thế hệ máy tính điện tử (thế hệ thứ ba), về vật liệu mới, năng lượng mới, phát triển tin học. Cuộc cách mạng công nghệ trở thành cốt lõi của cách mạng khoa học - kĩ thuật nên giai đoạn thứ hai chủ yếu diễn ra trên lĩnh vực công nghệ.
Vấn đề bùng nổ dân số, sự vơi cạn nghiêm trọng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đặt ra cho cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật phải giải quyết trước hết là chế tạo và tìm kiếm những công cụ sản xuất mới có kĩ thuật và năng suất cao, tạo ra những vật liệu mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa:
- Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.
- Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia.
- Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn.
- Sự ra đời của các tổ chức liên kết, kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp ước Thương mại tự do Bắc Mĩ (NAFTA), Khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM),...
Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế - xã hội, xu thế toàn cầu hóa còn đặt ra thách thức to lớn về mặt chính trị đối với các quốc gia đó là vấn đề chủ quyền quốc gia.
Điều này được lý giải bằng sự tác động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về chính trị. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, người ta thường nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không có và không thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Mặt tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa: làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào hố sâu ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước; làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người kém an toàn hơn, hoặc tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc và xâm phạm độc lập tự chủ của các quốc gia.
Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược, bởi nó là hệ quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Toàn cầu hóa đem lại nhiều mặt tích cực và tiêu cực đối với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) là tổ chức liên kết của các nước vành đai Thái Bình Dương, là tổ chức liên kết mang tính khu vực. Những tổ chức còn lại đều là liên kết mang tính quốc tế.
Những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa ngày nay là:
- Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.
- Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia.
- Sự sáp nhập các công ti thành những tập đoàn lớn.
- Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.