I. Sự ra đời của ba tổ chức cách mạng
II. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
1. Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản năm 1929
a. Hoàn cảnh
- Năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển.
- Tháng 3/1929, Chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Bắc Kì.
- Tháng 5/1929, tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đoàn đại biểu Bắc Kì đặt vấn đề thành lập Đảng Cộng sản song không được chấp nhận.
b. Sự ra đời ba tổ chức cộng sản
- Ngày 17/6/1929, Đông Dương Cộng sản đảng thành lập ở Bắc Kì.
- Tháng 8/1929, An Nam Cộng sản đảng thành lập ở Nam kì.
- Tháng 9/1929, Đông Dương Cộng sản liên đoàn được thành lập.
c. Ý nghĩa, tác động
- Là xu thế khách quan của cuộc vận động giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
- Ba tổ chức cộng sản họat động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau, công kích lẫn nhau, làm phong trào cách mạng trong nước có nguy cơ chia rẽ lớn.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Hoàn cảnh
- Năm 1929, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời họat động riêng rẽ làm phong trào cách mạng trong nước có nguy cơ chia rẽ lớn => Yêu cầu thống nhất các tỏ chức cộng sản thành một đảng duy nhất.
- Nguyễn Ái Quốc được tin Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phân liệt thành hai tổ chức cộng sản liền rời khỏi Xiêm, sang Trung Quốc để thống nhất các tổ chức cộng sản.
- Từ 6/1 đến 8/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản được triệu tập tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc).
b. Nội dung
- Nguyễn Ái Quốc phê phán những quan điểm sai lầm của các tổ chức cộng sản riêng rẽ.
- Thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng cộng sản Việt Nam.
- Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt,… của Đảng do Nguyễn Ai Quốc soạn thảo => Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Nội dung Cương lĩnh
- Đường lối chiến lược: tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Nhiệm vụ chiến lược: đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; thành lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản cách mạng chia cho dân cày nghèo.
- Lực lượng cách mạng: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức; phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản thì lợi dụng hoặc trung lập.
- Lãnh đạo cách mạng: Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Mối quan hệ với cách mạng thế giới: cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới.
-> Đây là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Độc lập và tự do là tư tưởng cốt lõi.
c. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng
- Là kết quả của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp, là sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử trên con đường đấu tranh đầu thế kỉ XX.
- Là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam.
- Là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt mới trong lịch sử dân tộc.
*Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn 1919 - 1930:
- Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản.
- Chuẩn bị về tư tưởng chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản.
- Trực tiếp sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chuẩn bị đường lối của Đảng - Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
"Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng" là mục tiêu đấu tranh của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng.
Cơ sở hạt nhân đầu tiên của Việt Nam Quốc dân đảng là Nam đồng thư xã.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 đã thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1925, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập với mục đích tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết, đấu tranh đánh đuổi giặc Pháp và tay sai.
Năm 1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phân hóa thành hai tổ chức cộng sản, đó là Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng.
Trong những năm 1925 – 1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phát động phong trào "vô sản hóa" (năm 1928).
Tháng 3/1929, tại số nhà 5D, phố Hàm Long (Hà Nội), một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
Việt Nam Quốc dân đảng chú trọng lấy lực lượng nào binh lính người Việt trong quân đội Pháp làm chủ lực trong cuộc đấu tranh chống Pháp và tay sai.
Cơ quan ngôn luận của Đông Dương Cộng sản đảng là báo Búa liềm.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (đầu năm 1930) đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) xác định lực lượng của cách mạng Việt Nam là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức; còn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản dân tộc thì lợi dụng hoặc trung lập.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (1930) đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Độc lập và tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này. Từ đó, trong từng giai đoạn lịch sử, dù trải qua những hoàn cảnh khó khăn khác nhau, trước những kẻ thù khác nhau thì Đảng ta vẫn luôn kiên trì nguyên tắc độc lập tự do.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Thành phần chủ yếu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt,.. do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng là tầng lớp tư sản dân tộc chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Tam dân và Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc. Vì vậy, Việt Nam Quốc dân đảng là một chính đảng theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930) đề ra nhiệm vụ thành lập chính phủ công – nông – binh.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho Việt Nam được độc lập tự do.
Cuối năm 1924, sau khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ. Phần lớn học viên là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước.
Như vậy, những học viên này phần lớn thuộc giai cấp tiểu tư sản.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 có sự tham gia của đại biểu các tổ chức Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng.
"Tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết, đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình" là mục tiêu hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Tháng 2/1930, Việt Nam Quốc dân đảng phát động cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Khởi nghĩa sau đó nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp.
Như vậy, sự kiện diễn ra trong phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam thời kì 1925 – 1930 là khởi nghĩa Yên Bái.
Sau khi tham gia các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ do Nguyễn Ái Quốc tổ chức ở Quảng Châu, Trung Quốc (1924 – 1927), phần lớn các học viên đã bí mật về nước truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân đấu tranh.
Cơ quan ngôn luận của An Nam Cộng sản đảng là báo Đỏ.
Việt Nam Quốc dân đảng chủ trương tiến hành cách mạng bằng phương pháp bạo lực cách mạng.
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2/1930) thất bại nhưng đã cổ vũ lòng yêu nước, chí căm thù của nhân dân ta đối với thực dân Pháp và tay sai, đồng thời chấm dứt vai trò lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng đối với cách mạng Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.