1. Miền Bắc
- Thuận lợi: xây dựng được những cơ sở vật chất - kĩ thuật ban đầu của CNXH.
- Khó khăn: Chiến tranh phá hoại của Mĩ để lại hậu quả nặng nề.
2. Miền Nam
- Thuận lợi: Miền Nam được giải phóng hoàn toàn, chế độ thực dân mới của Mĩ và bộ máy chính quyền Sài Gòn trung ương sụp đổ.
- Khó khăn:
II. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở hai miền đất nước (Giảm tải)
III. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (1975 - 1976)
1. Lí do
- Tổ quốc Việt Nam đã được thống nhất về lãnh thổ, nhưng ở mỗi miền vẫn tồn tại hình thức tổ chức nhà nước khác nhau.
- Nguyện vọng của nhân dân: mong muốn có một chính phủ thống nhất, một cơ quan quyền lực đại diện chung cho nhân dân cả nước.
- Cần tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để cả nước cùng thực hiện nhiêm vụ đi lên CNXH.
2. Quá trình thực hiện
- Tháng 9/1975: Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 24 đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
- Từ 15 đến 20/9/1975: Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất đất nước.
- Ngày 25/4/1976: Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung trong cả nước.
- Từ 24/6 đến 3/7/1976: Quốc hội khóa VI họp kì đầu tiên, thông qua chính sách đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất.
3. Ý nghĩa
- Tạo cơ sở để hoàn thành thống nhất đất nước trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội.
- Tạo những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước.
- Tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên CNXH.
- Tạo ra những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới.
Theo SGK Lịch sử 12 trang 201, để đáp lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân cả nước, đồng thời cũng phù hợp với thực tế lịch sử dân tộc – "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một" – Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9/1975) đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Theo SGK Lịch sử 12 trang 199, 200, sau Đại thắng mùa Xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền trung ương Sài Gòn bị sụp đổ, nhưng cơ sở của chính quyền này ở địa phương cùng bao di hại của xã hội cũ vẫn còn tồn tại. Cuộc chiến tranh của Mĩ đã gây ra hậu quả nặng nề. Nhiều làng mạc, đồng ruộng bị tàn phá. Nửa triệu hécta ruộng đất bị bỏ hoang. Một triệu hécta rừng bị chất độc hóa học và bom đạn cày xới. Vô số bom mìn còn bị vùi lấp trên các cánh đồng, ruộng vườn và nơi cư trú của nhân dân. Đội ngũ thất nghiệp lên tới hàng triệu người. Số người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn trong dân cư.
Miền Nam có nền kinh tế trong chừng mực nhất định phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, song về cơ bản vẫn mang tính chất của kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển không cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ từ bên ngoài.
Như vậy, phương án nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ chính là đáp án.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, hoàn thành việc thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ. Như vậy, điều kiện thuận lợi của Việt Nam ngay sau Đại thắng mùa Xuân 1975 là đất nước được thống nhất về mặt lãnh thổ.
Từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước tại Sài Gòn đã nhất trí hoàn toàn các vấn đề về chủ trương, biện pháp nhằm thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất đất nước (11/1975) được tổ chức tại Sài Gòn.
Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất được bầu bởi cuộc Tổng tuyển cử ngày 25 - 4 - 1976 là Quốc hội khoá VI.
"Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan cửa sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam".
Tại kì họp đầu tiên Quốc hội khóa VI (tháng 6 – 7/1976), Quốc hội đã quyết định lấy tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ ngày 2/7/1976).
Theo SGK Lịch sử 12 trang 202, từ 24/6 đến 3/7/1976, Quốc hội khóa VI nước Việt Nam thống nhất họp kì đầu tiên tại Hà Nội, thông qua chính sách đối nội và chính sách đối ngoại, quyết định tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kì là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, thủ đô là Hà Nội, thành phố Sài Gòn – Gia Định đổi tên là Thánh phố Hồ Chí Minh.
Như vậy, tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không phải quyết định của kì họp đầu tiên Quốc hội khóa VI, tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tồn tại từ 2/9/1945 đến 1/7/1976.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa thành lập (1976) đã có 94 nước chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
Từ ngày 15 đến ngày 21 -11 - 1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước tại Sài Gòn, đã nhất trí hoàn toàn chủ trương, biện pháp thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Tổ quốc Việt Nam đã được thống nhất mặt lãnh thổ, song chưa thống nhất về mặt nhà nước, về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng.
Theo SGK Lịch sử 12 trang 199, trải qua hơn 20 năm (1954 – 1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, đã xây dựng được cơ sở vật chất – kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội.
Tôn Đức Thắng là người được bầu làm Chủ tịch nước đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kì họp đầu tiên của Quốc hội khóa VI (1976).
Ngay sau Đại thắng mùa Xuân 1975, Tổ quốc Việt Nam được thống nhất về mặt lãnh thổ, song ở mỗi miền vẫn tồn tại hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Thực tế đó trái với nguyện vọng muốn có một chính phủ thống nhất, một cơ quan đại diện cho quyền lực chung của nhân dân cả nước. Mặt khác, việc tồn tại hai hình thức tổ chức nhà nước khác nhau ở hai miền sẽ gây khó khăn trong việc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu của cách mạng Việt Nam sau Đại thắng mùa Xuân 1975 chính là hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Theo SGK Lịch sử 12 trang 202, 203, hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, những điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới.
Theo SGK Lịch sử 12 trang 200, miền Nam có nền kinh tế trong chừng mực nhất định phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, song về cơ bản vẫn mang tính chất của kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển không cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ từ bên ngoài.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, ở Việt Nam có sự tồn tại những hình thức tổ chức nhà nước khác nhau ở mỗi miền: miền Bắc là Chính phủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, miền Nam là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Do đó, yêu cầu thống nhất đất nước về mặt nhà nước là rất cấp thiết.
Từ năm 1954 đến trước năm 1974, nền kinh tế miền Nam phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Với kết quả của kì họp thứ nhất Quốc hội khóa VI (1976), công việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước ở Việt Nam đã hoàn thành.