I. Nhà Trần thành lập
1. Nhà Lý sụp đổ
- Cuối thế kỉ XII, nhà Lý suy yếu:
- Trước tình hình đó nhà Lý phải dựa vào thế lực họ Trần để chống lại các lực lượng nổi loạn.
=> Tạo điều kiện cho họ Trần lên nắm quyền.
- Tháng 12/1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần cảnh, nhà Lý sụp đổ, nhà Trần được thành lập.
2. Nhà Trần củng cố chế độ phong kiến tập quyền
- Bộ máy quan lại thời Trần về cơ bản vẫn giống thời Lý, được tổ chức theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền.
- Trung ương:
- Địa phương: Cả nước chia làm 12 lộ, dưới là phủ, châu, huyện, xã.
3. Pháp luật thời Trần
- Nhà Trần ban hành Quốc triều hình luật, về cơ bản giống bộ luật thời Lý nhưng được bổ sung thêm.
- Pháp luật xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản, quy định cụ thể việc mua bán ruộng đất.
- Cơ quan pháp luật được tăng cường và hoàn thiện.
II. Nhà Trần xây dựng quân đội và phát triển kinh tế
1. Nhà trần xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng
- Quân đội gồm có cấm quân và quân ở các lộ.
- Ở các làng, xã có hương binh, ngoài ra còn có quân đội của các vương hầu.
- Quân đội được tuyển chọn theo chính sách “ngự binh ư nông”, theo chủ trương “Quân lính cốt tinh nhuệ không cốt đông”.
- Quân đội được học tập binh pháp và luyện tập võ nghệ.
- Vua Trần thường đi tuần tra, cử nhiều tướng giỏi cầm quân đóng giữ các vị trí hiểm yếu.
2. Phục hồi và phát triển kinh tế.
a) Nông nghiệp
- Đẩy mạnh khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích canh tác.
- Cho phép vương hầu lập điền trang.
- Chú trọng thủy lợi, đặt chức Hà đê sứ.
=> Nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và phát triển.
b) Thủ công nghiệp
- Các xưởng thủ công nhà nước chuyên sản xuất đồ gốm, dệt, chế tạo vũ khí.
- Thủ công nghiệp trong nhân dân có nhiều nghành nghề như làm giấy, đúc đồng, khắc ván in,..
c) Thương nghiệp
- Nội thương: Xây dựng nhiều chợ làng, xã. Kinh thành Thăng Long có 61 phố phường.
- Ngoại thương phát triển: Các cửa biển Hội Thống, Hội Triều, Vân Đồn,… là nơi buôn bán tấp nập với thương nhân nước ngoài.
Dưới thời Trần, quân các lộ ở đồng bằng gọi là chính binh, còn ở miền núi gọi là phiên binh.
Tình hình thương nghiệp nước ta dưới thời Trần:
- Nội thương: ở các làng, xã chợ mọc lên ngày càng nhiều. Kinh thành Thăng Long trở thành trung tâm buôn bán nổi tiếng lúc bấy giờ. Bên cạnh Hoàng thành, đã có 61 phường.
- Ngoại thương: buôn bán với thương nhân nước ngoài cũng phát triển, nhất là ở các cửa biển Hội Thống (Hà Tĩnh), Hội Triều (Thanh Hóa), Vân Đồn (Quảng Ninh),…
Như vậy, dưới thời Trần, buôn bán trong nước và với nước ngoài đều phát triển.
Cấm quân thời Trần có nhiệm vụ bảo vệ vua, kinh thành, triều đình.
Để trông coi và đốc thúc việc đắp đê, năm 1248, nhà Trần đã đặt ra chức quan Hà đê sứ.
Quân đội nhà Trần được tuyển dụng theo chính sách ngụ binh ư nông (cho quân lính luân phiên luyện tập và sản xuất), và theo chủ trương "Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông".
Dưới thời Trần, nhà nước lệnh cho các lộ đắp đê Đỉnh nhĩ. Đây là đê đắp từ đầu nguồn sông đến cửa biển để đề phòng nước sông lên to. Nhà nước còn đặt chức Hà đê sứ để trông coi, đốc thúc việc đắp đê, chỗ nào đắp vào ruộng đất của dân sẽ tính trả tiền lại.
Cấm quân thời Trần được tuyểnchọn từ những trai tráng khỏe mạnh ở quê hương nhà Trần (Tức Mặc, Nam Định).
Điền trang là vùng đất các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán làm nô tì để khai khẩn ruộng đất hoang.
Dưới thời Trần, quân ở làng xã được gọi là hương binh.
Dưới thời Trần, quân các lộ ở đồng bằng gọi là chính binh, còn ở miền núi gọi là phiên binh.
Quân đội nhà Trần được tổ chức theo chủ trương "Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông", coi trọng chất lượng hơn số lượng.
Các quý tộc họ Trần được phong vương hầu và ban thái ấp. Tuy nhiên đất đai được ban cấp làm thái ấp các quý tộc chỉ có quyền chiếm hữu, còn nhà nước vẫn nắm quyền sở hữu tối cao
Thời nhà Trần đã sáng tạo ra một chế độ chính trị đặc biệt, đó là chế độ Thái thượng hoàng. Theo đó, nhà vua sau khi ở ngôi một thời gian sẽ truyền lại ngôi cho con và xưng là Thái thượng hoàng. Vua sẽ xử lý và điều hành triều đình dưới sự hướng dẫn và giám sát của vua cha là Thái thượng hoàng cho tới khi thành thạo công việc.
Cách truyền ngôi như vậy có nhiều điều lợi cho hoàng gia:
- Vua được Thái thượng hoàng hướng dẫn và giúp củng cố vương quyền trong thời gian bắt đầu làm vua.
- Tránh được cảnh anh em tranh giành ngôi vua, có thể dẫn đến hỗn loạn triều đình. Nhất là nếu vua cha băng hà đột ngột trước khi truyền ngôi vua.
- Tránh được cảnh bị đại thần có thế lực trong triều soán đoạt ngôi vua.
Người có công lao to lớn trong việc sáng lập ra triều Trần là Trần Thủ Độ. Đầu năm 1226, dưới sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, vua Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần cảnh, nhà Trần được thành lập.
Về đơn vị hành chính, nhà Trần chia cả nước làm 12 lộ. Đứng đầu mỗi lộ là các chức quan chánh, phó An phủ sứ.
Đầu năm 1226, dưới sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, vua Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần cảnh (Trần Thái Tông), nhà Trần được thành lập.
Vị vua đầu tiên của nhà Trần là Trần Thái Tông (Trần Cảnh).
Để đảm bảo quyền lực của dòng họ, phần lớn các chức đại thần văn, võ dưới thời Trần do người họ Trần nắm giữ.
Vị vua cuối cùng của nhà Lý là Lý Chiêu Hoàng.
Do không có con trai nối dõi, năm 1224, vua Lý Huệ Tông đã nhường ngôi cho con gái của mình là Lý Chiêu Hoàng. Đến đầu năm 1226, dưới sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần cảnh, kết thúc sự tồn tại của nhà Lý, nhà Trần được thành lập.
Đầu năm 1226, dưới sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, vua Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần cảnh, nhà Trần được thành lập.
Như vậy, nhà Trần được thành lập ngay sau triều Lý.
Đầu năm 1226, dưới sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, vua Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần cảnh, nhà Trần được thành lập.
Nhà Trần chia cả nước làm 12 lộ. Đứng đầu mỗi lộ là các chức quan chánh An phủ sứ, phó An phủ sứ.