1. Kinh tế
a) Giai đoạn 1945 – 1950
- Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế
b) Giai đoạn 1950 – 1973
- Kinh tế phát triển nhanh.
- Tây Âu trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới.
* Nguyên nhân khiến kinh tế Tây Âu phát triển:
- Áp dụng thành tựu khoa học - kĩ thuật vào sản xuất.
- Vai trò quản lí, điều tiết có hiệu quả nền kinh tế của nhà nước.
- Tận dụng các yếu tố bên ngoài để phát triển kinh tế: viện trợ của Mĩ, nguồn nguyên liệu rẻ của các nước thế giới thứ 3, hợp tác có hiệu quả trong khuôn khổ EC,…
c) Giai đoạn 1973 – 1991
- Từ năm 1973, kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng do tác động của cuộc khủng hoảng năm lượng thế giới.
- Phát triển kinh tế thường xen kẽ với khủng hoảng, suy thoái, lạm phát, thất nghiệp.
d) Giai đoạn 1991 – 2000
- Đầu thập kỉ 90, kinh tế trải qua một đợt suy thoái ngắn.
- Đến 1994, kinh tế có sự phục hồi và phát triển.
- Tây Âu vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới.
2. Đối ngoại
a) Giai đoạn 1945 – 1950
- Liên minh chặt chẽ với Mĩ.
- Tìm cách trở lại xâm lược các thuộc địa cũ.
b) Giai đoạn 1950 – 1991
- Một mặt liên minh với Mĩ, mặt khác cố gắng đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ ngoại giao.
c) Giai đoạn 1991 – 2000
- Các nước có sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại do Chiến tranh lạnh kết thúc:
- Mở rộng quan hệ với các nước đang phát triển.
3. Liên minh châu Âu
a) Lí do liên kết
- Nhu cầu liên kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau phát triển.
- Mong muốn hạn chế ảnh hưởng của Mĩ vào khu vực.
- Tác động của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật và xu thế hội nhập, liên kết khu vực trên thế giới.
b) Sự thành lập
- Ngày 18/4/1951, 6 nước Tây Âu (Pháp, Tây Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lucxămbua thành lập “Cộng đồng than - thép châu Âu” (ECSC).
- Ngày 25/3/1957, sáu nước ký Hiệp ước Rôma, thành lập “Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu” (EURATOM) và “Cộng đồng kinh tế châu Âu” (EEC).
- Ngày 1/7/1967, ba tổ chức trên hợp nhất thành “Cộng đồng châu Âu” (EC).
- 7/12/1991, Hiệp ước Maxtrich được ký kết, có hiệu lực từ 1/1/1993, EEC đổi tên thành Liên minh châu Âu (EU) với 15 nước thành viên.
c) Mục tiêu
Hợp tác liên minh giữa các nước thành viên trong lĩnh vực kinh tế, tiền tệ, chính chị, đối ngoại và an ninh chung.
c) Cơ cấu tổ chức
Gồm 5 cơ quan chính: Hội đồng châu Âu, Hội đồng Bộ trưởng, Ủy ban châu Âu, Quốc hội châu Âu, Tòa án châu Âu,
d) Hoạt động
- Tháng 6/1979, diễn ta cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu đầu tiên.
- Tháng 3/1995, hủy bỏ việc kiểm soát đi lại của công dân các nước qua biên giới của nhau.
- 1/1/1999, đồng tiền chung châu Âu EURO được phát hành. Đến 1/1/2002 chính thức được sử dụng ở nhiều nước.
- Cuối thập kỉ 90, EU trở thành liên minh kinh tế - chính trị lớn nhất hành tinh, chiếm ¼ GDP của thế giới.
- Năm 1990, quan hệ EU - Việt Nam được thiết lập.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã để lại hậu quả nặng nề với nền kinh tế của các nước Tây Âu kể cả các nước bại trận và thắng trận.Theo quy định của hội nghị Ianta, vùng Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai thuộc phạm vi cai quản của Mĩ. Lúc này, chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống thế giới và nguy cơ " Tây Âu bị cộng sản thôn tính " đang đến gần, Mĩ đã nhanh tay phát động chiến tranh lạnh để chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng việc các nước Tây Âu đang cần vốn để phát triển kinh tế Mĩ đã thông qua kế hoạch Mác - san viện trợ cho các nước Tây Âu từ đó lôi kéo họ vào các mưu đồ quân sự. Vì thế mối quan hệ giữa Mĩ và Tây Âu sau chiến tranh thế giới hai là Các nước Tây Âu phải liên minh chặt chẽ với Mĩ.
Đặc điểm nổi bật về kinh tế của các nước Tây Âu trong những năm 1973 - 1991 là lâm vào tình trạng khủng hoảng và suy thoái. Sự phát triển kinh tế thường xen kẽ với khủng hoảng và suy thoái: mức tăng trưởng của Pháp giảm từ 2,4\% đến 2,2\% (1973 - 1992); mức tăng trưởng của Anh -1,8\% (1991); số người thất nghiệp gia tăng ở các nước…
Theo SGK Lịch sử 12 trang 49, về kinh tế, do tác động của cuộc khủng haonrg năng lượng thế giới, cũng như Mĩ và Nhật Bản, từ năm 1973 nhiều nước tư bản chủ yếu ở Tây Âu lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, phát triển không ổn định, kéo dài đến đầu thập kỉ 90.
Trong bối cảnh "Chiến tranh lạnh" gay gắt giữa hai phe, các nước Tây Âu đã tham gia khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) do Mĩ lập ra (4 – 1949), chạy đua vũ trang, thiết lập nhiều căn cứ quân sự nhằm chống lại Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
Sau cuộc khủng hoảng năng lượng, các nước Tây Âu đều cố gắng thực hiện cải cách để vươn lên. Cho đến khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trật tự hai cực Ianta tan rã, tình hình đối nội của các nước Tây Âu về cơ bản là ổn định, các nước này đã trở thành một trong 3 trung tâm kinh tế tài chính lớn của thế giới và họ đã nhận thức lại vấn đề đối ngoại. Từ chỗ theo Mĩ và lệ thuộc vào Mĩ, các nước Tây Âu đã cố gắng thoát khỏi ảnh hưởng của Mĩ và mở rộng quan hệ không chỉ với các nước tư bản phát triển khác mà còn với các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mĩ Latinh. Hiện nay, hầu hết các nước Tây Âu đều tích cực đấu tranh vì hòa bình và dân chủ trên toàn thế giới, chỉ duy nhất có Anh là nước luôn ủng hộ Mĩ trong các kế hoạch quân sự và can thiệp vũ trang.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, với việc ra đời hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, nguy cơ châu Âu bị cộng sản thôn tính đã làm cho giới cầm quyền Mĩ lo ngại. Lúc này, để củng cố tiềm lực và vị thế, Mĩ tăng cường chạy đua vũ trang, phát động Chiến tranh lạnh chống chủ nghĩa xã hội và phong trào giải phóng dân tộc ở tất cả các khu vực trên thế giới. Ở châu Âu, Mĩ lập ra khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) và lôi kéo hàng loạt các nước châu Âu trở thành đồng minh của Mĩ và coi đây là con át chủ bài trong việc chống chủ nghĩa cộng sản. Ngoài ra, ở mỗi một khu vực Mĩ đều lập ra một khối quân sự riêng như: ở Trung Cận Đông lập ra khối CENTO, ở Đông Nam Á lập khối SEATO, ở Nam Thái Bình Dương lập ra khối ANZUS.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước tư bản Tây Âu tìm cách trở lại để thiết lại chủ quyền đối với các thuộc địa cũ trước đây.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Đức trở thành tâm điểm đối đầu giữa hai cực Liên Xô và Mĩ.
Theo quyết định của Hội nghị Ianta (2/1945), Hồng quân Liên Xô sẽ giáp giáp phát xít ở miền Đông nước Đức, còn miền Tây nước Đức giao cho quân đội Mĩ, Anh, Pháp. Nhưng ngay sau đó, Mĩ, Anh và sau đó là Pháp đã hợp nhất các khu vực chiếm đóng của mình và lập ra Nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức (9/1949). Tháng 10/1949, được sự giúp đỡ của Liên Xô, các lực lượng dân chủ ở Đông Đức đã thành lập Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Như thế, trên lãnh thổ nước Đức đã xuất hiện hai nhà nước với hai chế độ chính trị và con đường phát triển khác nhau. Sự tồn tại của hai nhà nước Đức trở thành tâm điểm đối đầu ở châu Âu giữa hai cực Liên Xô và Mĩ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau khi nước Đức phát xít đầu hàng, các nước Liên Xô, Mĩ, Anh và Pháp đã phân chia lãnh thổ nước Đức thành bốn khu vực để chiếm đóng và kiểm soát.
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, Tây Âu đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới (cùng với Mĩ và Nhật Bản).
Từ năm 1950 đến năm 1973, nhiều nước tư bản Tây Âu một mặt vẫn tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mĩ, mặt khác cố gắng đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.
Ngày 1-1-1999, đồng tiền chung châu Âu với tên gọi là đồng ơ-rô (EURO) được phát hành. Đến ngày 1-1-2002 chính thức được sử dụng ở nhiều nước EU.
Về đối ngoại, từ năm 1950 đến 1973, bên cạnh việc cố gắng đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, các nước tư bản Tây Âu vẫn tiếp tục chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ.
Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) đã làm cho nền kinh tế Tây Âu trở nên kiệt quệ do tiêu tốn nhiều tiền của vào chiến tranh và hậu quả chiến tranh để lại.
Trong giai đoạn 1950 - 1973, Pháp đã chú ý phát triển quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; phản đối việc trang bị vũ khí hạt nhân cho Cộng hòa Liên bang Đức; rút khỏi Bộ chỉ huy NATO; yêu cầu Mĩ rút căn cứ quân sự và quân sự trên đất Pháp...
Nhờ sự viện trợ của Mĩ, đến khoảng năm 1950, kinh tế các nước Tây Âu cơ bản được phục hồi, đạt mức trước chiến tranh.
Ngày 7-12-1991, các nước thành viên EC kí Hiệp ước Maxtrích (Hà Lan), có hiệu lực từ ngày 1-1-1993 đổi tên thành Liên minh châu Âu (EU).
Trong những năm 1950 - 1973, nước Pháp (thuộc khu vực Tây Âu) đã thực hiện đường lối đối ngoại độc lập với Mĩ.
Vhính sách đối ngoại của các nước Tây Âu giai đoạn 1945 – 1950: liên minh chặt chẽ với Mĩ và tìm cách trở lại cách thuộc địa cũ của mình.
Đến cuối thập kỉ 90, EU đã trở thành tổ chức liên kết chính trị - kinh tế lớn nhất hành tinh, chiếm ¼ GDP của thế giới.
Trong giai đoạn 1950 - 1973, nhiều thuộc địa của các nước Tây Âu (Anh, Pháp, Hà Lan) tuyên bố độc lập, đánh dấu thời kì "phi thực dân hóa" trên phạm vi thế giới.
Để khắc phục hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Tây Âu đã nhận viện trợ từ Mĩ theo khuôn khổ của Kế hoạch Mácsan.