I. Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám
1. Khó khăn
- Nan ngoại xâm, nội phản đe dọa nền độc lập:
- Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố.
- Kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề:
- Văn hóa: Hơn 90% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã hội tràn lan.
=> Nước Việt Nam đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”
2. Thuận lợi
- Ta đã giành được chính quyền, đưa nhân dân lên vị trí làm chủ đất nước, thêm tin vào Đảng, một lòng theo Đảng và đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết.
- Với khí thế thắng lợi của cách mạng tháng Tám nhân dân ta đã trưởng thành và vững vàng hơn trong đấu tranh, đặc biệt cách mạng có Đảng lãnh đạo đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh.
=> Thuận lợi là cơ bản.
II. Củng cố chính quyền cách mạng và bảo vệ độc lập dân tộc
1. Bước đầu xây dựng chế độ mới
- Ngày 8/9/1945, Chính phủ Lâm thời tuyên bố lệnh Tổng tyển cử trong cả nước.
- Ngày 6/1/1945, hơn 90% cử tri trong cả nước đã đi bầu những đại biểu đầu tiên.
- Ngày 2/3/1946, Chính phủ mới ra mắt . Lập ban dự thảo hiến pháp.
- Sau đó khắp Bắc, Trung Bộ lập tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp.
- Ngày 29/5/1946, Mặt trận Liên Việt ra đời để mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc.
2. Diệt giặc đói, giặc dốt và giải quyết khó khăn về tài chính.
a. Diệt giặc đói
- Biện pháp:
- Kết quả: Nạn đói được đầy lùi
b. Diệt giặc dốt
- Biện pháp:
- Kết quả: Đẩy lùi nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân.
3. Giải quyết khó khăn về tài chính
- Biện pháp:
- Kết quả: Nhân dân quyên góp được nhiều tiền vàng, thống nhất được tiền tệ.
4. Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược
- Hoàn cảnh: Đêm 22, rạng sáng 23/9/1945, thực dân Pháp đánh úp trụ sở Ủy ban Nhân dân Nam Bộ và cơ quan Tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần hai.
- Diễn biến:
5. Đấu tranh chống quân Tưởng và bọn phản Cách mạng
- Hoàn cảnh: Khi vào giải giáp quân Nhật, Quân Tưởng sử dụng bọn “Việt Quốc”, “Việt Cách” để chống phá cách mạng Việt Nam từ bên trong.
- Chủ trương của Đảng: Nhân nhượng quân Trung Hoa Dân quốc.
- Biện pháp:
=> Nhân nhượng có nguyên tắc.
6. Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946)
- Hoàn cảnh: Thực dân Pháp kí với Chính phủ Tưởng Giới Thạch bản hiệp ước Hoa - Pháp (28/2/1946). Theo hiêp ước này Pháp nhượng lại một số quyền lợi cho Tưởng trên đất Trung Quốc, đổi lại Pháp được đưa quân ra miền Bắc thay thế Tưởng giải giáp quân dội Nhật.
- Chủ trương của Đảng: Chủ động đàm phán với Pháp để nhanh chóng đẩy quân Tưởng về nước.
- Biện pháp: Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Xanh-tơ-ni bản Hiệp định sơ bộ.
- Nội dung Hiệp định sơ bộ:
- Sau Hiệp định sơ bộ., Pháp vẫn gây xung đột vũ trang ở Nam Bộ, âm mưu tách miền Nam ra khỏi Việt Nam. Ta đấu tranh buộc Pháp ngồi vào bàn hội nghị tại Phông-ten-lơ-blô. Nhưng hội nghị đã thất bại.
- Trước tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Chính phủ Pháp bản Tạm ước (14/9/1946), tiếp tục nhượng cho Pháp một số quyền lợi để ta có thời gian xây dựng lực lượng, chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Theo SGK Lịch sử 9 trang 96, chỉ 10 ngày sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội của các nước trong phe Đồng minh với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật đã kéo vào nước ta.
Đi bầu cử đại biểu Quốc hội chính là chọn ra những đại biểu ưu tú nhất vào chính quyền các cấp. Việc làm này chính là bước đầu xây dựng chính quyền.
Nội dung Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với đại diện Chính phủ Pháp:
- Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia "tự do" , có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng và tài chính riêng và là thành viên của Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
- Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận cho 15000 quân Pháp ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp phát xít Nhật và rút dần trong thời hạn 5 năm.
- Hai bên thực hiện ngừng bắn ở Nam Bộ, tạo không khí thuận lợi cho cuộc đàm phán chính thức ở Pa-ri.
Như vậy, phương án Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập nằm trong khối Liên hiệp Pháp không thuộc nội dung Hiệp định Sơ bộ.
Mở các lớp bình dân học vụ là biện pháp nhằm chống giặc dốt, những biện pháp còn lại nhằm mục đích diệt giặc đói.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Việt Nam tồn tại lực lượng quân đội của nhiều nước, bao gồm:
- Lực lượng quân Anh và quân Trung Hoa Dân quốc vào giải giáp phát xít Nhật.
- Lực lượng quân Nhật chờ giải giáp.
- Lực lượng quân Pháp còn lại ở Việt Nam.
Để khắc phục tình trạng trống rỗng về ngân sách của Chính phủ sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã tích cực hưởng ứng phong trào "Tuần lễ vàng".
Theo SGK Lịch sử 9 trang 96, ở phía Nam vĩ tuyến 16, quân Anh đã mở đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam.
Để giải quyết nạn đói, chính phủ đã đề ra nhiều biện pháp cấp thời như tổ chức quyên góp, điều hòa thóc gạo giữa các địa phương trong nước, nghiêm trị những người đầu cơ tích trữ gạo, lập ra "Hũ gạo cứu đói", tổ chức "Ngày đồng tâm", không dùng gạo, ngô, khoai, sắn… để nấu rượu
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta gặp muôn vàn khó khăn thử thách, tình hình kinh tế trong nước kiệt quệ, nạn dốt, nạn đói hoành hành, ngoại xâm, nội phản liên miên. Có thể nói tình thế nước ta bấy giờ là "ngàn cân treo sợi tóc".
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ồ ạt vào cách tỉnh phía Bắc vĩ tuyến 16 ở nước ta với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật.
Sau Cách mạng tháng Tám năm, chính quyền cách mạng mới được thành lập còn non trẻ và đứng trước nguy cơ bị lật đổ, để củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, ngày 8-9-1945, Chính phủ Lâm thời công bố lệnh Tổng tuyển cử trong cả nước.
Ngày 8-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ - cơ quan chuyên trách về chống "giặc dốt", kêu gọi nhân dân cả nước tham gia phong trào xóa nạn mù chữ.
Sự bắt tay giữa Pháp và Trung Hoa dân quốc để chống phá cách mạng Việt Nam được thể hiện bằng sự kiện ngày 28-2-1946, Pháp và Trung Hoa dân quốc đã kí Hiệp ước Hoa - Pháp. Theo đó Trung Hoa dân quốc được Pháp trả lại các tô giới, nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phòng vào Vân Nam không phải đóng thuế. Đổi lại, Pháp được đưa quân ra Bắc thay Trung Hoa dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
Đêm ngày 22 rạng sáng ngày 23-9-1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp cho quân đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Để giải quyết căn bản nạn đói, tăng gia sản xuất là biện pháp hàng đầu và có tính chất lâu dài. Để khuyến khích sản xuất, chính quyền cách mạng đã ra lệnh bãi bỏ các thứ thuế vô lý; tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công một cách công bằng, dân chủ.
Theo SGK Lịch sử 9 trang 96, chỉ 10 ngày sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội của các nước trong phe Đồng minh, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, đã kéo vào nước ta.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Anh, Trung Hoa dân quốc dưới danh nghĩa nghĩa quân Đồng Minh kéo vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật.
Để hạn chế sự phá hoại của quân Trung Hoa dân quốc và tay sai, tại kì họp đầu tiên (2-3-1946), Quốc hội khóa I đồng ý nhường cho các đảng Việt Quốc và Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, cùng 4 ghế bộ trưởng trong chính phủ liên hiệp và 1 ghế chủ tịch nước. Đồng thời nhân nhượng một số quyền lợi kinh tế như: cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải, cho phép lưu hành tiền Trung Quốc trên thị trường.
Tránh trường hợp phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc, từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 6-3-1946, Đảng và Chính phủ chủ trương tạm thời hòa hoãn, tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân quốc .
Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt với nhiều khó khăn, dó là nạn đói, nạn dốt, khó khăn về tài chính, nạn ngoại xâm và nội phản.