I. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA CÂN BẰNG NỘI MÔI
Cân bằng nội môi: Là duy trì sự ổn định của môi trường trong cơ thể
Ý nghĩa: Sự ổn định về các điều kiện lí hoá của môi trường trong đảm bảo cho các tế bào, cơ quan trong cơ thể hoạt động bình thường. Rất nhiều bệnh của người và động vật là hậu quả của mất cân bằng nội môi
II. SƠ ĐỒ KHÁI QUÁT CƠ CHẾ DUY TRÌ CÂN BẰNG NỘI MÔI
- Bộ phận tiếp nhận kích thích: là thụ thể hoặc cơ quan thụ cảm. Bộ phận này tiếp nhận kích thích từ môi trường (trong, ngoài) và hình thành xung thần kinh truyền về bộ phận điều khiển
- Bộ phận điều khiển: là trung ương thần kinh hoặc tuyến nội tiết. Bộ phận này có chức năng điều khiển các hoạt động của các cơ quan bằng cách gửi đi các tín hiệu thần kinh hoặc hoocmôn
- Bộ phận thực hiện: là các cơ quan như thận, gan, phổi, tim, mạch máu… dựa trên tín hiệu thần kinh hoặc hoocmôn từ bộ phận điều khiển để tăng hoặc giảm hoạt động nhằm đưa môi trường trở về trạng thái cân bằng, ổn định.
Hệ thần kinh bao gồm hệ thần kinh trung ương đóng vai trò là bộ phận điều khiển trong cơ chế điều hòa cân bằng nội môi, và hệ thần kinh ngoại biên gồm các dây thần kinh hướng tâm và ly tâm có tác dụng truyền thông tin đến các cơ quan tiếp nhận và đáp ứng kích thích.
Hệ nội tiết kiểm soát sự hoạt động của hàng ngàn enzim khác nhau tham gia vào ổn định môi trường bên trong cơ thể.
Là bộ phận điều khiển.
Giải thích: vùng dưới đồi sản xuất ra hoocmon ADH sau đó dự trữ ở thùy sau tuyến yên điều khiển quá trình tái hấp thu nước ở thận.
Insulin và glucagon.
Giải thích: insulin làm cho gan nhận và chuyển glucôzơ thành glicogen dự trữ, đồng thời làm cho các tế bào của cơ thể tăng nhận và sử dụng glucôzơ, còn glucagon thì ngược lại.
Điều hòa đường huyết.
Giải thích: khi đường huyết thay đổi tụy tiết ra insulin hoặc glucagon giúp giảm hoặc tăng hàm lượng glucôzơ trong máu về mức bình thường.
Thụ thể áp ở cung động mạch chủ.
Giải thích: bộ phận tiếp nhận kích thích là thụ thể hoặc cơ quan thụ cảm.
SGK sinh học cơ bản trang 89
Điều hòa áp suất thẩm thấu.
Giải thích: thận giúp duy trì ổn định áp suất thẩm thấu của máu thông qua quá trình đào thải và tái hấp thu các chất qua nước tiểu. Thận cũng góp phần điều hòa huyết áp nhưng trung khu điều hòa huyết áp ở hành não mới là bộ phận chủ yếu giúp điều hòa huyết áp với bộ phận thực hiện là tim và hệ mạch.
Muối NaCl.
Vai trò của bộ phận điều
khiển là để kích hoạt các cơ quan đáp ứng kích thích khi cần thiết, đưa hệ thống
về trạng thái tối ưu ban đầu của nó là vai trò của bộ phận đáp ứng kích thích,
còn để phát hiện những thay đổi trong môi trường là vai trò của bộ phận tiếp nhận
kích thích.
Tăng thải nhiệt bằng truyền nhiệt và tăng thải nhiệt bằng bốc hơi đúng.
Giải thích: khi nhiệt độ cơ thể tăng, động vật chống nóng bằng cách tiết mồ hôi và tăng diện tích tiếp xúc của các cơ quan giàu mạch máu để tăng thải nhiệt ra môi trường.
Bộ phận tiếp nhận kích
thích (các thụ thể, thụ quan) , Bộ phận điều khiển (trung ương thần kinh, tuyến
nội tiết), Bộ phận đáp ứng kích thích (tim,gan, thận, phổi, mạch máu...) là 3
thành phần chính trong sơ đồ điều hòa cân bằng nội môi.
(SGK sinh học cơ bản 11 trang 89).
Làm tăng hay giảm hoạt động trong cơ thể để đưa môi trường trong cơ thể về trạng thái cân bằng và ổn định.
SGK Sinh học 11 tr.87.
Điều hòa lượng nước trong cơ thể.
Giải thích: khi áp suất thẩm thấu thay đổi thì lượng nước cơ thể cũng thay đổi. Và việc tăng hoặc giảm lượng nước trong cơ thể lại ảnh hưởng tới thể tích máu và huyết áp.
(SGK sinh học cơ bản 11 trang 89)
Thuật ngữ Môi trường
bên trong (tiếng Pháp: le milieu intérieur, tiếng Anh: the internal
environment)
được đề ra bởi nhà
sinh lý học người Pháp Claude Bernard để chỉ dịch ngoài tế bào (dịch ngoại
bào). Dịch ngoại bào là dịch bên ngoài tế bào, gồm 20% là huyết tương và 80% là
dịch gian bào.
Insulin và glucagon.
SGK Sinh học 11 tr.88.
Gồm tất cả các protein có trong huyết tương.
Giải thích: chỉ một số loại protein trong huyết tương tham gia vào hệ đệm pH, số còn lại giữ các chức năng khác như miễn dịch, tham gia quá trình đông máu,...
Albumin.
Giải thích: albumin được sản xuất và phân hủy ở gan, là một loại protein huyết tương giúp tăng áp suất thẩm thấu của máu, thiếu nó máu không kéo được nước về bị ứ ở các mô gây phù nề. Còn fibrinogen là một loại protein huyết tương tham gia vào cơ chế đông máu, globulin là kháng thể tham gia vào hệ thống miễn dịch của cơ thể, hemoglobin là thành phần cấu tạo nên nhân hem của hồng cầu.
Là hệ đệm mạnh nhất của cơ thể.
Giải thích: hệ đệm protein mới là hệ đệm mạnh nhất của cơ thể.
Hàm lượng Na+ trong máu giảm.
Giải thích: aldosteron có tác dụng kích thích sự tái hấp thu Na+ ở ống thận.
Hệ đệm bicacbonat.
Giải thích: tốc độ phản ứng của hệ đệm bicacbonat diễn ra nhanh nhất trong các hệ đệm nên tốc độ điều chỉnh pH của nó là nhanh nhất.
Glucôzơ được liệt kê
vào danh sách những chất bất thường trong nước tiểu.Đó là những chất chỉ có lượng
rất ít hoặc không có trong nước tiểu bình thường (không phát hiện được bằng các
phương pháp thông thường). Glucôzơ có mặt trong nước tiểu được gọi là glucôzơ
niệu. Glucôzơ niệu gặp trong bệnh đái tháo đường tuỵ, do thiếu insulin nên glucôzơ
không thoái hoá được, nồng độ glucôzơ trong máu tăng cao quá ngưỡng thận nên bị
đào thải ra nước tiểu. Cũng có trường hợp có glucôzơ niệu nhưng nồng độ glucôzơ
máu không cao, đó là do khả năng tái hấp thu của ống thận giảm.
(SGK sinh học cơ bản 11 trang 89)
Có khả năng duy trì ổn định pH máu.
Giải thích: hệ đệm duy trì được pH máu ổn định do chúng có khả năng lấy đi H+ hoặc OH- khi các ion này xuất hiện trong máu.