I. SỰ KHÁC NHAU GIỮA QUẦN THỂ NGƯỜI VỚI CÁC QUẦN THỂ SINH VẬT KHÁC
+ Quần thể người và quần thể sinh vật có những đặc điểm giống nhau: giới tính, lứa tuổi, mật độ, sinh sản và tử vong.
+ Tuy nhiên, quần thể người còn có những đặc điểm khác mà quần thể sinh vật không có: pháp luật, kinh tế, hôn nhân, giáo dục, văn hóa, xã hội.
- Con người có những đặc điểm khác với quần thể sinh vật khác vì: con người có lao động và tư duy, có khả năng điều chỉnh đặc điểm sinh thái trong quần thể, đồng thời cải tạo thiên nhiên
II. ĐẶC TRƯNG VỀ THÀNH PHẦN NHÓM TUỔI CỦA MỖI QUẦN THỂ NGƯỜI
- Người ta chia dân số thành nhiều nhóm tuổi khác nhau:
+ Nhóm tuổi trước sinh sản: từ sơ sinh đến dưới 15 tuổi.
+ Nhóm tuổi sinh sản và lao động: 15 – 64 tuổi.
+ Nhóm tuổi hết khả năng lao động nặng: từ 65 tuổi trở lên.
- Có 3 dạng tháp tuổi:
+ Nếu nước có đông trẻ em dưới 15 tuổi (chiếm 30% dân số), số lượng người già không nhiều (<10% dân số), tuổi thọ trung bình thấp được xếp vào nước có dân số trẻ. Nếu nước có ít trẻ em dưới 15 tuổi (><30% dân số), số lượng người già tương đối nhiều (>10% dân số), tuổi thọ trung bình cao được xếp vào nước có dân số già.
+ Nếu nước có ít trẻ em dưới 15 tuổi (<30% dân số), số lượng người già tương đối nhiều (>10% dân số), tuổi thọ trung bình cao được xếp vào nước có dân số già.
- Ý nghĩa: khi nghiên cứu tháp tuổi để có kế hoạch điều chỉnh mức tăng giảm dân số.
III. TĂNG DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
- Tăng dân số tự nhiên là kết quả của số người sinh ra nhiều hơn số người tử vong. Tuy nhiên, trong tự nhiên sự tăng giảm dân số còn phụ thuộc vào sự di cư.
- Khi dân số tăng quá nhanh làm cho nguồn tài nguyên cạn kiệt, tài nguyên tái sinh không đủ cung cấp dẫn tới hậu quả.
+ Thiếu nơi ở, lương thực, trường học, bệnh viện.
+ Ô nhiễm môi trường.
+ Cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
+ Chậm phát triển kinh tế.
+ Thiên tai thường xuyên xảy ra.
- Để hạn chế sự ảnh hưởng xấu của việc tăng dân số, mỗi quốc gia cần phát triển dân số hợp lí tạo được sự hài hòa giữa kinh tế và xã hội đảm bảo cuộc sống cho mỗi cá nhân, gia đình và xã hội.
Tăng dân số nhanh là hiện tượng việc tăng dân số không phù hợp với điều kiện phát triển của kinh tế xã hội, gây dư thừa nguồn lao động, thiếu nơi ở và các điều kiện cần thiết khác, phát sinh những tệ nạn như buôn lậu gỗ, khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên.
Nhóm tuổi sinh sản và lao động: từ 15 đến 64 tuổi.
Dạng tháp dân số già (dạng tháp ổn định) với phần giữa và đáy có sự tương đương nhau.
Quần thể người được chia thành 3 nhóm tuổi: nhóm tuổi trước sinh sản, nhóm tuổi sinh sản và lao động, nhóm tuổi hết khả năng lao động nặng nhọc.
Mục đích của việc thực hiện Pháp lệnh dân số ở Việt Nam là nhằm đảm bảo chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội.
Nhóm tuổi trước sinh là từ từ 0 đến dưới 15 tuổi.
Phát triển dân số một cách hợp lý là phát triển dân số hài hòa với phát triển kinh tế - xã hội. Việc nên sinh bao nhiêu con cũng tùy thuộc vào tình hình mỗi quốc gia và không có con số định lượng cụ thể.
Nhóm tuổi sinh sản và lao động: từ 15 đến 64 tuổi. 14 tuổi là độ tuổi trước sinh sản, 65 và 70 tuổi là độ tuổi hết khả năng lao động nặng nhọc.
Nhóm tuổi hết khả năng lao động nặng nhọc từ 65 tuổi trở lên.
Đặc trưng kinh tế - xã hội chỉ có ở những quần thể cao cấp, có sự phát triển ưu việt về trí tuệ. Và hiện nay chỉ có quần thể người mới có đặc trưng đó.