I. Khởi nghĩa Yên Thế (1884 – 1913)
1. Nguyên nhân bùng nổ
Khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng, Yên Thế trở thành mục tiêu bình định của chúng. Để bảo vệ cuộc sống của mình, nông dân Yên Thế đã nổi dậy đấu tranh.
2. Các giai đoạn phát triển
3. Ý nghĩa lịch sử
- Ý nghĩa lịch sử:
- Nguyên nhân thất bại:
II. Phong trào đấu tranh chống Pháp của đồng bào miền núi
1. Các phong trào tiêu biểu
- Ở Nam Kì: nhân dân các dân tộc thiểu số đã sát cánh cùng người Kinh đánh Pháp từ giữa thế kỷ XIX.
- Ở miền Trung: cuộc đấu tranh do Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước cầm đầu.
- Ở Tây Nguyên: tù trưởng Nơ-trang Gư, Ama Con, Ama Giơ-hao,… đã kêu gọi nhân dân rào làng chiến đấu từ 1889 đến 1905.
- Ở Tây Bắc: đồng bào các dân tộc Mường, Thái… tập hợp dưới ngọn cờ của Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Văn Giáp lập căn cứ kháng chiến ở Lai Châu, Sơn La hoạt động mạnh ở sông Đà.
- Trong các năm 1884 - 1890, xuất hiện các toán quân người Thái dưới sự chỉ huy của Đèo Văn Trì, Nông Văn Quang, Cầm Văn Thanh, Cầm Văn Hoan.
- Đồng bào Thái ở Sơn La, Yên Bái do Đèo Chính Lục, Đặng Phúc Thành cầm đầu đã phục kích quân Pháp ở nhiều nơi.
- Đồng bào Mông ở Hà Giang do Hà Quốc Thượng lãnh đạo đã nổi dậy chống Pháp từ năm 1894 đến năm 1896.
- Tại vùng Đông Bắc Kỳ, bùng nổ phong trào của người Dao, người Hoa, tiêu biểu nhất là đội quân của Lưu Kỳ.
2. Đặc điểm, ý nghĩa
- Đặc điểm: Phong trào bùng nổ sau phong trào ở đồng bằng nhưng tồn tại bền bỉ và kéo dài.
- Ý nghĩa: Góp phần làm chậm quá trình xâm lược và bình định của thực dân Pháp.
Sau khi Đề Nắm bị sát hại, từ năm 1893 đến năm 1913, Đề Thám (Hoàng Hoa Thám) đã lên thay thế và trở thành lãnh tụ tối cao của khởi nghĩa Yên Thế
- Từ năm 1884 đến 1892: nhiều toán nghĩa quân hoạt động riêng rẽ ở Yên Thế, chưa có sự chỉ huy thống nhất. Thủ lĩnh có uy tín nhất lúc đó là Đề Nắm. Sau khi Đề Nắm mất, Đề Thám trở thành chỉ huy tối cao của phong trào
- Từ năm 1893 đến 1908: thời kì nghĩa quân vừa chiến đấu, vừa xây dựng cơ sở
- Từ năm 1909 đến 1913: Pháp tập trung lực lượng tổ chức tấn công lên Yên Thế. Trải qua nhiều trận càn liên tiếp, lực lượng nghĩa quân ngày càng hao mòn. Đầu năm 1913, Đề Thám bị sát hại, phong trào tan rã
Giữa thế kỉ XIX, sự sa sút về nông nghiệp đã khiến nhiều nông dân vùng đồng bằng Bắc Kì buộc phải rời quê hương đi tìm nơi khác sinh sống. Trong đó một bộ phận kéo lên Yên Thế, lập làng, tổ chức sản xuất.
Nhận thấy tương quan lực lượng quá chênh lệch, Đề Thám phải tìm cách giảng hòa với quân Pháp. Năm 1894, sau khi phục kích bắt được chủ đồn điền người Pháp là Sét-nay, Đề Thám đồng ý thả tên này với điều kiện Pháp phải rút quân khỏi Yên Thế. Đề Thám được cai quản 4 tổng trong khu vực là Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ và Hữu Thượng
Nông dân Yên Thế đứng lên nhằm bảo vệ cuộc sống của mình khi thực dân Pháp xâm phạm.
Lực lượng nào tham gia đông nhất trong khởi nghĩa Yên Thế là nông dân.
Lãnh đạo của khởi nghĩa Yên Thế là nông dân.
Trong bối cảnh so sánh tương quan lực lượng quá chênh lệch, để có thêm thời gian chuẩn bị và củng cố lực lượng, Đề Thám đã 2 lần chủ động xin giảng hòa với thực dân Pháp vào tháng 10-1894 và tháng 12-1897.