I. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng nước ta sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương
1. Tình hình
Sau Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền:
- Miền Bắc:
- Miền Nam:
2. Nhiệm vụ
- Miền Bắc: khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh; tiến lên CNXH.
- Miền Nam: tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước.
- Cả nước: đấu tranh chống đế quốc Mĩ và tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, tạo điều kiện để cả nước đi lên CNXH.
II. Miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất (1954 - 1960)
1. Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954 - 1957)
a) Hoàn thành cải cách ruộng đất
- Chủ trương: Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế ở miền Bắc và yêu cầu về quyền lợi kinh tế, chính trị của nông dân, củng cố khối liên minh công - nông và mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng và Chính phủ quyết định “Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất”.
- Quá trình thực hiện: từ tháng 4/1953 đến đầu năm 1956, miền Bắc tiến hành 5 đợt cải cách ruộng đất và nhiều đợt giảm tô.
- Kết quả: Tịch thu, trưng thu, trưng mua khoảng 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò và 1,8 triệu nông cụ từ tay giai cấp địa chủ chia cho 2 triệu hộ nông dân.
- Ý nghĩa:
b) Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh
2. Cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội (1958 - 1960)
III. Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ - Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng, tiến tới “Đồng khởi” (1954 - 1960)
1. Đấu tranh chống chế độ Mĩ - Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng (1954 - 1959)
2. Phong trào “Đồng khởi” (1959 - 1960)
a) Hoàn cảnh
Tháng 5/1957, Ngô Đình Diệm ban hành đạo luật đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật (Luật 10/59), công khai chém giết, làm cho hàng vạn cán bộ, đảng viên bị giết hại, hàng chục vạn đồng bào yêu nước bị tù đày.
=> Cần có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng vượt qua khó khăn, thử thách.
b) Chủ trương của Đảng
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (1/1959):
- Để nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng đánh đổ chính quyền Mĩ - Diệm.
- Phương hướng của cách mạng miền Nam: khởi nghĩa giành chính quyền bằng đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũ trang đánh đổ Mĩ - Diệm.
c) Diễn biến chính
- Phong trào lẻ tẻ: Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Ninh Thuận), Trà Bồng (Quảng Ngãi) năm 1959.
- Cao trào cách mạng: Đầu năm 1960 bùng nổ ra ở Bến Tre, sau đó lan khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở miền Trung Trung Bộ.
d) Kết quả, ý nghĩa
- Giáng đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mĩ, làm lung lay tận gốc chính quyền Ngô Đình Diệm.
- Đánh dấu bước phát triển của cách mạng miền Nam: chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
- Tháng 12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
IV. Miền Bắc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961 - 1965)
1. Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng (9/1960)
a. Bối cảnh
Tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được triệu tập tại Hà Nội.
b. Nội dung
- Đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước và của cách mạng từng miền:
- Xác định vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa cách mạng hai miền Bắc - Nam:
- Thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng và thông qua kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965).
- Bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị.
c. Ý nghĩa
Đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam, bước trưởng thành của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
2. Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965)
a. Kế hoạch nhà nước 5 năm (1961 - 1965)
- Nhiệm vụ cơ bản:
- Thành tựu:
* Công nghiệp:
* Nông nghiệp:
* Thương nghiệp quốc doanh được Nhà nước ưu tiên phát triển nên đã chiếm lĩnh được thị trường.
* Giao thông vận tải: mạng lưới đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển được xây dựng, củng cố, hoàn thiện, đã phục vụ đắc lực cho yêu cầu giao lưu kinh tế và củng cố quốc phòng.
* Văn hoá, giáo dục, y tế:
- Ý nghĩa: Làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội, giúp Miền Bắc vững mạnh, tạo điều kiện để củng cố an ninh quốc phòng và thực hiện tốt nghĩa vụ hậu phương, chi viện cho tiền tuyến Miền Nam.
b) Miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương
- Trong 5 năm ( 1961 - 1965), khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, thuốc men,... từ miền Bắc được chuyển vào chiến trường miền Nam; nhiều đơn vị vũ trang, nhiều cán bộ quân sự, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế được huấn luyện đưa vào chiến trường tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng vùng giải phóng.
V. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ (1961 - 1965)
1. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ
- Lí do thực hiện: Hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm thất bại.
- Bản chất: Là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn, do “cố vấn” Mĩ chỉ huy, dựa vào vũ khí, phương tiện chiến tranh của Mĩ.
- Âm mưu: “Dùng người Việt đánh người Việt”.
- Thủ đoạn:
* Kế hoạch Xtalây - Taylo: bình định miền Nam trong vòng 18 tháng:
* Kế hoạch Giônxơn - Mác Namara: bình định miền Nam có trọng điểm trong 2 năm.
2. Miền Nam chiến đấu chống “Chiến tranh đặc biệt”
- Mặt trận chống phá bình định:
- Mặt trận chính trị: Nổi bật là cuộc đấu tranh của các tín đồ Phật giáo, “đội quân tóc dài” chống lại sự đàn áp của chính quyền Diệm.
- Mặt trận quân sự:
Để tránh thất bại hoàn toàn ở miền Nam Việt Nam sau cuộc "Đồng khởi" (1959 - 1960), Mĩ buộc phải thay đổi chiến lược, từ việc sử dụng hình thức thống trị tay sai Ngô Đình Diệm sang chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 - 1965). "Chiến tranh đặc biệt" nằm trong chiến lược toàn cầu của Mĩ trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhằm thực hiện âm mưu bá chủ toàn cầu. Với âm mưu cơ bản là "dùng người Việt trị người Việt", để thực hiện kế hoạch chiến lược trên, Mĩ tăng nhanh viện trợ quân sự cho Diệm, đưa vào miền Nam số lượng ngày càng lớn "cố vấn" quân sự và lực lượng hỗ trợ chiến đấu. Đồng thời, dựa vào lực lượng quân sự và bằng những cuộc hành quân càn quét, chính quyền Sài Gòn đã ráo riết dồn dân, lập “ấp chiến lược”. "Ấp chiến lược" được coi là "quốc sách" và gần như một cuộc chiến tranh tổng lực nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các xã, ấp, tách dân khỏi cách mạng, tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình "bình định" miền Nam. Như vậy, đáp án của câu hỏi là xây dựng hệ thống "ấp chiến lược", tăng cường cố vấn Mĩ, củng cố ngụy quyền.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc được hòa bình và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam chưa được hòa bình và phải tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sau thời gian cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời phong trào "Đồng khởi" ở miền Nam đang phát triển mạnh mẽ, tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã diễn ra. Đại hội đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước, nhiệm vụ của cách mạng từng miền và mối quan hệ giữa cách mạng hai miền Bắc Nam. Đại hội cũng thông qua nhiều văn kiện quan trọng, trong đó có kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Như vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được khẳng định là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà.
Thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mĩ sử dụng phổ biến các chiến thuật "trực thăng vận" và "thiết xa vận". Tuy nhiên, chiến thắng Ấp Bắc (tháng 1/1963) của quân dân miền Nam Việt Nam bước đầu làm thất bại các chiến thuật này của Mĩ.
Giữa tháng 5 – 1956, Pháp rút quân khỏi miền Nam khi chưa thực hiện cuộc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam – Bắc Việt Nam theo điều khoản của Hiệp định Giơnevơ. Điều này đã tạo điều kiện cho Mĩ nhanh chóng nhảy vào miền Nam thay chân Pháp, lập nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam và biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và là căn cứ quân sự ở Đông Dương, Đông Nam Á.
Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 – 1965) của đế quốc Mĩ ở miền Nam Việt Nam được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn, đặt dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn Mĩ, sử dụng vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mĩ.
Tháng 1 - 1963, nhân dân miền Nam Việt Nam giành được thắng lợi trong trận Ấp Bắc (Mĩ Tho). Thắng lợi này đã mở ra khả năng đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ, làm dấy lên phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” trên khắp miền Nam.
Trong bối cảnh mới của cách mạng miền Nam: đế quốc Mĩ và các thế lực tay sai tăng cường chống phá cách mạng, cố tình trì hoãn việc triển khai Hiệp định Giơnevơ, miền Nam có nguy cơ bị biến thành thuộc địa kiểu mới. Tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp và xác định phương hướng cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền bằng lực lượng chính trị là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang.
Phong trào "Đồng khởi" (1959 – 1960) đã giáng một đòn vô cùng nặng nề vào chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ, làm lung lay tận gốc chính quyền Ngô Đình Diệm, đồng thời cũng đánh dấu bước phát triển của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Chiến thắng Bình Giã (Bà Rịa) vào ngày 2/2/1964 của quân dân miền Nam Việt Nam đã đánh thắng các chiến thuật "trực thăng vận" và "thiết xa vận" của đế quốc Mĩ, làm cho chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" bị phá sản về cơ bản.
Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954 - 1975: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Phong trào Đồng khởi (1959 - 1960) ở miền Nam Việt Nam thắng lợi dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960) do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, lo ngại sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản xuống Đông Nam Á và trên toàn thế giới, Mĩ đã triển khai chiến lược toàn cầu và can thiệp vào nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có khu vực Đông Nam Á. Vì vậy, Mĩ đã tích cực viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương nhưng không đạt được mục tiêu của mình. Cho nên, ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, Mĩ đã triển khai kế hoạch thay Pháp nhảy vào miền Nam Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và là căn cứ quân sự của Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Trong năm đầu sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng, ở miền Nam, Mĩ lập nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm nhằm thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và là căn cứ quân sự của Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á.
"Ấp chiến lược" được coi là "xương sống" của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", được Mĩ và chính quyền Sài Gòn nâng lên thành "quốc sách nhằm bình định toàn bộ miền Nam Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã xác định cách mạng miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước.
Chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" cuối năm 1972 của quân dân miền bắc Việt Nam đã buộc Mĩ phải kí kết Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân về nước.
Phong trào "Đồng khởi" (1959 – 1960) của nhân dân miền Nam Việt Nam đã làm lung lay tận gốc chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm của đế quốc Mĩ. Nhận thấy hình thấy thống trị bằng chính quyền tay sai thất bại, Mĩ đã chuyển sang thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 – 1965).
Trong chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 - 1965), chiến thuật quân sự được Mĩ sử dụng phổ biến là "trực thăng vận" và "thiết xa vận".
Chiến thắng Ấp Bắc (1/1963) của quân dân miền Nam đã dấy lên phong trào "Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công" trên toàn miền Nam Việt Nam.
"Ấp chiến lược" được Mĩ và chính quyền Sài Gòn coi như "xương sống" của "Chiến tranh đặc biệt" và nâng lên thành "quốc sách". Chúng coi việc lập "ấp chiến lược" như một cuộc chiến tranh tổng lực nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các xã, ấp, tách dân khỏi cách mạng, tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình bình định miền Nam Việt Nam.
"Đồng khởi" là phong trào đấu tranh vũ trang đầu tiên của cách mạng miền Nam Việt Nam sau một thời gian đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ. "Đồng khởi" có ý nghĩa đặc biệt đối với tiến trình phát triển của cách mạng miền Nam nói riêng cũng như cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta nói chung, bởi nó đã làm lung lay tận gốc chế độ tay sai Ngô Đình Diệm, giáng một đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mỹ và đưa cách mạng miền Nam phát triển nhảy vọt từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Phong trào "Đồng khởi" (1959 – 1960) đã chuyển cách mạng miền Việt Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Sau Đồng khởi, phong trào cách mạng miền nam ngày càng phát triển, đẩy chính quyền Sài Gòn lâm vào tình trạng khủng hoảng triền miên. Để cứu nguy, giữa năm 1961, Mĩ đã thông qua một loại hình chiến tranh mới ở miền Nam Việt Nam mang tên "Chiến tranh đặc biệt" (1961 - 1965).
Âm mưu xuyên suốt của Mĩ khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 – 1975) là biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Do đó, đây cũng làm âm mưu của Mĩ khi tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 - 1965).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960) xác định cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam Việt Nam.
Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đơn phương", lo ngại trước sự phát triển của Cộng sản và phong trào cách mạng của Việt Nam, Chính phủ Hoa Kì đã nhanh chóng thông qua một loại hình chiến lược chiến tranh mới ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1961 - 1965 mang tên "Chiến tranh đặc biệt". "Chiến tranh đặc biệt'’ là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn" quân sự và dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Âm mưu cơ bản của "Chiến tranh đặc biệt" là "dùng người Việt đánh người Việt".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần III của Đảng Lao động Việt Nam (9/1960) xác định nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc là thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Dân tộc giải phóng do Đảng lãnh đạo, quân dân miền Nam đẩy mạnh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, tiến công địch bằng cả ba mũi.
Theo SGK Lịch sử 12 trang 166, đối với miền Bắc, Đại hội III khẳng định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, Mĩ liền thay thế Pháp, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam, thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Như vậy, phương án đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam, Bắc phản ánh đúng tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương.
Năm 1963, sau khi lên làm Tổng thống thay Kennơdy, Giônxơn quyết định đẩy mạnh hơn nữa "Chiến tranh đặc biệt". Kế hoạch Giôn xơn - Mác Namara được đề ra nhằm thay thế kế hoạch Xtalây - Taylo. Mục đích của kế hoạch này là bình định miền Nam Việt Nam có trọng điểm trong vòng 2 năm 1964 - 1965.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã khẳng định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn, thống nhất nước nhà.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần III của Đảng Lao động Việt Nam (9-1960) đề ra nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà.
Thắng lợi quân sự mở đầu của nhân dân miền Nam trong cuộc chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 – 1965) của Mĩ là chiến thắng Ấp Bắc (1/1963). Thắng lợi này đã dấy lên phong trào "Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công trên khắp miền Nam Việt Nam.
Chiến thuật quân sự được Mĩ sử dụng phổ biến trong chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 – 1965) là "trực thăng vận" và "thiết xa vận".
Sau Hiệp định Giơnevơ, đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị xã hội khác nhau: miền Bắc được hòa bình và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam chưa được hòa bình và phải tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong điều kiện Pháp đã rút khỏi Việt Nam, Mĩ đã từng bước thế chân Pháp, lập nên chính quyền tay sai nhằm biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, tiền đồn chống chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á. Tình hình mới đã đặt ra nhiệm vụ hết sức quan trọng cho cách mạng miền Nam là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành thống nhất nước nhà.
Xem thêm các bài tiếp theo bên dưới