I. Kế hoạch Na-va của Pháp – Mĩ
- Ngày 7/5/1953, tướng Na-va được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, vạch ra kế hoạch quân sự Na-va.
- Mục đích: Xoay chuyển cục diện chiến tranh, hi vọng trong 18 tháng (kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
- Nội dung: gồm 2 bước
II. Cuộc Tiến công chiến lược đông – xuân 1953 – 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954
1. Cuộc Tiến công chiến lược đông – xuân 1953 – 1954
a) Chủ trương của Đảng
-Tháng 9/1953, Trung ương Đảng đề ra kế hoạch tác chiến đông - xuân 1953 – 1954 với quyết tâm giữ vững thế chủ động trên chiến trường.
- Phương hướng tác chiến: Tập trung lực lượng tấn công vào những choc quan trọng về chiến lược nhưng địch tương đối yếu.
b) Diễn biến:
- Đầu 12/1953, ta mở chiến dịch Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ, buộc Pháp phải đưa quân từ đồng bằng Bắc Bộ về Điện Biên Phủ.
=> Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ 2 của địch.
- Cũng trong tháng 12, ta phối hợp với lực lượng kháng chiến Lào mở chiến dịch Trung Lào, giải phóng Thà Khẹt và bao vây Xê-nô. Buộc địch phải điều động quân đến giữ Xê-nô.
=> Xê-nô trở thành nơi tập trung quân thứ 3 của Pháp.
- Tháng 1/1954, ta mở chiến dịch Thượng Lào, giải phóng Phong Xa-lì và bao vây Luông Pha- bang, buộc địch phải điều động quân từ đồng bằng Bắc Bộ đến Luông Pha- bang.
=> Luông Pha-bang trở thành nơi tập trung quân thứ 4 của Pháp.
- Tháng 2/1954, ta mở chiến dịch tấn công địch ở Bắc Tây Nguyên, giải phóng được Kon Tum, bao vây Plây-ku, buộc địch phải điều động quân từ Tuy Hòa về Plây-ku.
=> Plây-ku trở thành nơi tập trung quân thứ 5 của Pháp.
c) Ý nghĩa
- Bước đầu làm phá sản kế hoạc Na-va của Pháp, buộc chúng phải phân tán lực lượng và giam chân ở miền núi.
2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)
a) Hoàn cảnh
- Âm mưu của Pháp: Sau thất bại trong đông – xuân 1953 – 1954, Pháp – Mĩ xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương để biến nơi đây thành nơi quyết chiến với bộ đội chủ lực của Việt Nam.
- Chủ trương của ta:
b) Diễn biến
Chiến dịch bắt đầu từ ngày 13/3/1954 đến ngày 7/5/1954 và được chia làm 3 đợt:
- Đợt 1: quân ta tiến công và tiêu diệt Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc.
- Đợt 2: quân ta tiến công và tiêu diệt căn cứ phía Đông phân khu Trung tâm.
- Đợt 3: quân ta đồng loạt tấn công tiêu diệt các căn cứ còn lại ở phân khu Trung tâm và phân khu Nam, tiêu diệt sở chỉ huy của địch.
c) Kết quả
- Ta tiêu diệt toàn bộ cứ điểm. Loại bỏ khỏi vòng chiến đấu 16200 địch, phá hủy 62 máy bay và toàn bộ phương tiện chiến tranh, bắt sống tướng Đờ-cát-xtơ-ri.
III. Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương (1954)
1. Hoàn cảnh
- Bước vào đông – xuân 1953 – 1954, đồng thời với mặt trận quân sự, ta đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.
- Hội nghị Giơ-ne-vơ được khai mạc ngày 8/5/1954 và bắt đầu thảo luận về vấn đề Đông Dương.
- Căn cứ và điều kiện cụ thể, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí Hiệp định Giơ-ne-vơ vào ngày 21/7/1954.
2. Nội dung
- Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của 3 nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
- Hai bên tham chiến cùng ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương.
- Hai bên tham chiến thực hiện cuộc di chuyển, tập kết quân đội ở hai vùng: Quân đội cách mạng Việt Nam và quân đội xâm lược Pháp tập kết ở hai miền Nam - Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời.
- Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trên cả nước, sẽ tổ chức vào 7/1956 dưới sự giám sát của Ủy ban quốc tế…
3. Ý nghĩa
- Chấm dứt chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở ba nước Đông Dương.
- Là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Đông Dương.
- Buộc Pháp rút quân về nước, Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hóa chiến tranh.
- Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, chuyển sang giai đoạn xã hội chủ nghĩa.
V. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)
1. Ý nghĩa lịch sử
- Đối với Việt Nam:
- Đối với thế giới:
2. Nguyên nhân thắng lợi
- Nguyên nhân chủ quan:
- Nguyên nhân khách quan:
Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 khiến cho khối cơ động chiến lược của Nava bị phân tán ra 5 vị trí: đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ, Xê-nô, Plâyku, Luông-pha-băng.
Lưu ý :
Các cuộc tiến công chiến lược trong Đông - Xuân 1953 – 1954 của nhân dân đã bước đầu phá sản Kế hoạch Nava của Pháp. Phá vỡ kế hoạch tập trung quân ở Đồng Bằng Bắc Bộ của thực dân Pháp.
Ngày 7-5-1953, Tướng Nava được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, vạch ra kế hoạch quân sự nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương, với hi vọng trong 18 tháng "kết thúc chiến tranh trong danh dự".
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chông Pháp (1945-1954) mới giải phóng được một nửa đất nước. Miền Bắc được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975) thắng lợi.
Phương án "Mở ra kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội" là ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975)
Phương châm chiến lược của ta trong Đông - Xuân 1953 -1954 là "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", "đánh ăn chắc, đánh chắc thắng". (SGK Lịch sử 9 tr 120
Để thực hiện kế hoạch tiến công chiến lược, từ thu - đông 1953, Nava tập trung ở Đồng Bằng Bắc Bộ 44 tiểu đoàn quân cơ động trong tổng số 84 tiểu đoàn trên toàn Đông Dương.
Chiều ngày 7-5-1954 tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ ban tham mưu đầu hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi.
Theo SGK Lịch sử 9 trang 123, Na-va và nhiều nhà quân sự Pháp – Mĩ đánh giá Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả xâm phạm".
Theo Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Theo SGK Lịch sử 9 trang 119, ngày 7 – 5 – 1953, tướng Na-va được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, vạch ra kế hoạch quân sự nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương, với hi vọng trong 18 tháng "kết thúc chiến tranh trong danh dự".
Chiến dịch bắt đầu từ ngày 13 – 3 – 1954 đến hết ngày 7 – 5 – 1954 và được chia làm 3 đợt. Như vậy chiến dịch lịch sử kéo dài 56 ngày đêm.
Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, Việt Nam sẽ tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước sẽ được tổ chức vào tháng 7- 1956 dưới sự kiểm soát của một Ủy ban quốc tế.
Lưu ý :
Tuy nhiên, điều khoản này sau đó không được Pháp thực hiện đúng. Pháp đã rút khỏi Việt Nam khi chưa thực hiện hiệp thương thống nhất hai miền Nam - Bắc.
Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu dịch lực lượng địch ở Điện Biên Phủ, giải phóng Tây Bắc, tạo điều kiện để giải phóng Bắc Lào.
= > Phương án "Giải phóng toàn bộ miền Bắc" là không đúng.
Cuối năm 1953 đầu năm 1954 ta mở những cuộc tiến công vào các hướng chiến lược, vừa tiêu diệt sinh lực địch vừa buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta. Ban đầu đồng bằng Bắc Bộ là nơi tập trung quân đông nhất ở Đông Dương, vì không thể bỏ các vị trí xung yếu nên Pháp đã phải điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ để tăng cường cho các vị trí này. Đó là Điện Biên Phủ, Xê-nô, Plây-cu, Luông Pha-bang.
Theo SGK Lịch sử 9 trang 120, phương châm chiến lược của ta là "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", "đánh ăn chắc, đánh chắc thắng".
Theo SGK Lịch sử 9 trang 119, thực hiện kế hoạch Na-va, thực dân Pháp xin Mĩ tăng thêm viện trợ quân sự, tăng thêm ở Đông Dương 12 tiểu đoàn bộ binh, tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ một lực lượng cơ động mạnh gồm 44 tiểu đoàn (trong tổng số 84 tiểu đoàn trên toàn Đông Dương).
Theo quy định của hiệp định Giơnevơ, ở Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam và quân viễn chinh Pháp tập kết ở hai miền Bắc- Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng một khu phi quân sự ở 2 bên giới tuyến.
Hiệp định Giơ-ne-vơ là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương và được các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng.
Bước thứ nhất của Kế hoạch Nava: trong thu- đông 1953 và xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tiến công chiến lược để bình định Trung và Nam Đông Dương, giành lấy nguồn nhân lực và vật lực, xóa bỏ vùng tự do liên khu V, đồng thời ra sức mở rộng ngụy quân, tập trung binh lực, xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh.
Theo SGK Lịch sử 9 trang 119, tháng 9 – 1953, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch tác chiến Đông – Xuân 1953 – 1954 là quyết tâm giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận là chính diện và sau lưng địch.
Một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị Giơ-ne-vơ bắt đầu đàm phán về vấn đề chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Sau hai tháng đàm phán căng thẳng, ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được kí kết. Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương chính là mốc chấm dứt hoàn toàn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam (1945 - 1954).
Theo SGK Lịch sử 9 trang 120, sau khi ta giải phóng toàn tỉnh Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ), Na-va buộc phải đưa 6 tiểu đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường. Như vậy, sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung quân thứ hai của địch.