Giáo án dạy học theo chuyên đề ngữ văn 10

Giáo án dạy học theo chuyên đề ngữ văn 10

4.4/5

Tác giả: Thầy Tùng

Đăng ngày: 22 Aug 2022

Lưu về Facebook:
Hình minh họa Giáo án dạy học theo chuyên đề ngữ văn 10

Công thức toán học không thể tải, để xem trọn bộ tài liệu hoặc in ra làm bài tập, hãy tải file word về máy bạn nhé

Ngày soạn : 05/09/2017

TIẾT 1-2.

ÔN TẬP ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

……………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng

- Luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản và tiếp nhận văn bản bằng việc luyện đề đọc hiểu văn bản.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Tư duy tổng hợp, vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học về văn bản; chăm chỉ và nỗ lực làm bài tập.

4. Định hướng phát triển năng lực HS

- Năng lực chung: Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực hợp tác.

- Năng lực riêng: cảm thụ thẩm mĩ, Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

B. PHƯƠNG TIỆN

- GV : Giáo án, tài liệu tham khảo, đề đọc hiểu.

- HS: Vở ghi.

C. PHƯƠNG PHÁP

- HS thực hành, thảo luận nhóm, GV hướng dẫn, chốt đáp án, khắc sâu những kiến thức quan trọng.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ : Kiểm tra tài liệu, đồ dùng học tập của HS (vở ghi).

3. Bài mới

I. ÔN TẬP LÍ THUYẾT

1. Các  phương thức biểu đạt

1.1. Tự sự (kể chuyện, tường thuật):

Tự sự là kể lại, thuật lại sự việc, là phương thức trình bày 1 chuỗi các sự việc, sự việc này đẫn đến sự việc kia, cuối cùng kết thúc thể hiện 1 ý nghĩa.

1.2.Miêu tả.

– Miêu tả là làm cho người đọc, người nghe, người xem có thể thấy sự vật, hiện tượng, con người (Đặc biệt là thế giới nội tâm) như đang hiện ra trước mắt qua ngôn ngữ miêu tả.

1.3. Biểu cảm: Là bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh.

1.4.Nghị luận: Là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải, trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết.

1.5.Thuyết minh: Được sử dụng khi cần cung cấp, giới thiệu, giảng giải những tri thức về 1 sự vật, hiện tượng nào đó cho người đọc , người nghe

2. Phép liên kết : Thế – Lặp – Nối- Liên tưởng – Tương phản – Tỉnh lược

Các phép liên kết

Đặc điểm nhận diện

Phép lặp từ ngữ

Lặp lại ở câu đứng sau những từ ngữ đã có ở câu trước

Phép liên tưởng (đồng nghĩa / trái nghĩa)

Sử dụng ở câu đứng sau những từ ngữ đồng nghĩa/ trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu trước

Phép thế

Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay thế các từ ngữ đã có ở câu trước

Phép nối

Sử dụng ở câu sau các từ ngữ biểu thị quan hệ (nối kết)với câu trước

3.  Các biện pháp tu từ từ vựng và các biện pháp nghệ thuật khác:

 Nhận diện những biện pháp nghệ thuật trong văn bản và tác dụng của những biện pháp nghệ thuật đó với việc thể hiện nội dung văn bản:

– So sánh; Ẩn dụ; Nhân hóa; Hoán dụ;  Nói quá- phóng đại- thậm xưng; Nói giảm- nói tránh; Điệp từ- điệp ngữ; Tương phản- đối lập; Phép liệt kê; Phép điệp cấu trúc; Câu hỏi tu từ; Cách sử dụng từ láy…

4Các hình thức lập luận của đọan văn: 

Có nhiều cách trình bày, trong đó có 7 cách chính sau: Diễn dịch, Quy nạp, tổng -phân -hợp, nêu phản đề, so sánh, phân tích nhân quả, vấn đáp

5. Các thể thơ: Đặc trưng của các thể loại thơ: Lục bát; Song thất lục bát; Thất ngôn; Thơ tự do; Thơ ngũ ngôn, Thơ 8 chữ

6. Các thao tác nghị luận

Có nhiều thao tác nghị luận khác nhau. Những thao tác thường gặp nhất là: 

– Thao tác lập luận phân tích: chia đối tượng ra thành nhiều yếu tố, bộ phận nhỏ để có thể nhận biết đối tượng một cách cặn kẽ, thấu đáo.

– Thao tác lập luận so sánh : Làm rõ thông tin về sự vật bằng cách đem nó đối chiếu với đối tượng sự vật khác quen thuộc hơn, cụ thể hơn để chỉ ra sự giống nhau và khác nhau giữa chúng

– Thao tác lập luận giải thích : là giảng giải về các vấn đề liên quan đến đối tượng một cách cụ thể, rõ ràng cho người nghe, người đọc hiểu tường tận.

– Thao tác lập luận chứng minh : Mục đích của chứng minh là làm người ta tin tưởng về những ý kiến, nhận xét có đầy đủ căn cứ từ trong những sự thật hoặc chân lý hiển nhiên

– Thao tác lập luận bác bỏ : Chính là dùng lý lẽ và chứng cứ để gạt bỏ những quan điểm, ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác từ đó nêu ý kiến đúng của mình để thuyết phục người nghe.

– Thao tác lập luận bình luận : Nhằm đề xuất và thuyết phục người đọc tán đồng với nhận xét đánh giá, bàn luận của mình về một hiện tượng trong đời sống hoặc trong văn học

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1: Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi từ câu 1 đến câu 4 :
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật, tiên độ trì

Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi.
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn chuyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”
(Trích “Truyện cổ nước mình”, Lâm Thị Mỹ Dạ)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên là gì?
Câu 2 : Nêu nội dung chính của đoạn thơ?
Câu 3 : Hãy liệt kê ít nhất hai câu tục ngữ, ca dao được gợi ra trong đoạn thơ trên
Câu 4: Anh/ chị có đồng tình với quan niệm của tác giả trong hai câu thơ :

“Chỉ còn chuyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”

Vì sao ?
Đáp án :”
Câu 1 :Phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ: biểu cảm
Câu 2 : Nội dung chính của đoạn thơ: Tình cảm yêu mến của tác giả đối với truyện cổ dân gian, cảm nhận thấm thía về bài học làm người ẩn chứa trong những truyện cổ dân gian mà cha ông ta đã đúc rút, răn dạy.
Câu 3 : Ví dụ “: ở hiền gặp lành, thương người như thể thương thân, Yêu nhau mấy núi cũng leo- mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua

Câu 4 : có 2 cách trả lời, đồng tình hoặc không đồng tình. Lí giải :
TH 1. Truyện cổ dân gian chính là nhịp cầu nối liền bao thế hệ
TH2 :Vì truyện cổ dân gian kết tinh những vẻ đẹp tình cảm, tư tưởng của người xưa.

Đề 2 :
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:
Trong dòng đời vội vã có nhiều người dường như đã quên đi tình nghĩa giữa người với người. Nhưng đã là cuộc đời thì đâu phải chỉ trải đầy hoa hồng, đâu phải ai sinh ra cũng có được cuộc sống giàu sang, có được gia đình hạnh phúc toàn diện mà còn đó nhiều mảnh đời đau thương, bất hạnh cần chúng ta sẻ chia, giúp đỡ.Chúng ta đâu chỉ sống riêng cho mình, mà còn phải biết quan tâm tới những người khác. (Đó chính là sự “cho” và “nhận” trong cuộc đời này)
“Cho” và “nhận” là hai khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng số người cóthể cân bằng được nó lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng có thể nói “Những ai biết yêu thương sẽ sống tốt đẹp hơn” hay “Đúng thế, cho đi là hạnh phúc hơn nhận về”. Nhưng tự bản thân mình, ta đã làm được những gì ngoài lời nói? Cho nên, giữa nói và làm lại là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân mình. Đâu phải ai cũng quên mình vì người khác. Nhưng xin đừng quá chú trọng đến cái tôi của chính bản thân mình. Xin hãy sống vì mọi người để cuộc sống không đơn điệu và để trái tim có những nhịp đập yêu thương.
Cuộc sống này có qua nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng nhất thực sự tồn tại là tình yêu thương. Sống không chỉ là nhận mà còn phải biết cho đi. Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất. (Trích “Lời khuyên cuộc sống…”)

Câu 1.
Trong văn bản trên, tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào?
Câu 2. Nêu nội dung chính của văn bản trên?
Câu 3. Hãy giải thích vì sao người viết cho rằng: “Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân mình’’?
Câu 4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của người viết: “Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất”. Trả lời trong khoảng 5-7 dòng.

Đáp án :
1. Trong văn bản trên, tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận: phân tích
2. Nội dung chính của đoạn văn: bàn về “cho” và “nhận” trong cuộc sống.
3. Người viết cho rằng: “Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân mình” bởi vì đó là sự “cho” xuất phát từ tấm lòng, từ tình yêu thương thực sự, không vụ lợi, không tính toán hơn thiệt.
4. Có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau nhưng phải nhấn mạnh được đó là quan điểm hoàn toàn đúng đắn, đúng với mọi người, mọi thời đại, như là một quy luật của cuộc sống, khuyên mỗi người hãy cho đi nhiều hơn để được nhận lại nhiều hơn

Đề 3 :

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi ở dưới
“… Bầm ơi có rét không bầm,

Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn.
Bầm ra ruộng cấy bầm run,
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non.
Mạ non bầm cấy mấy đon,
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân,
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu…”
(Trích Bầm ơi – Tố Hữu, tập thơ Việt Bắc, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2005)
Câu 1: Xác định các phương thức biểu đạt của văn bản ? (0,25 điểm)
Câu 2: Nội dung của văn bản ? (0,25 điểm)
Câu 3: Tìm và phân tích hiệu quả của những từ ngữ thể hiện nỗi vất vả của người mẹ trong đoạn thơ?
Câu 4: Anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn từ 5 -7 dòng thể hiện tình cảm của mình đối với mẹ?
Đáp án :
1.Phương thức biểu đạt : Biểu cảm, miêu tả.
2. Nội dung của đoạn thơ: Khắc họa hình ảnh người mẹ vất vả và tình cảm của người con đối với mẹ.
3. Các từ ngữ thể hiện nỗi vất vả của người mẹ: Bầm run, chân lội dưới bùn, ướt áo tứ thân.
Hiệu quả: Diễn tả chân thật, sinh động về hình ảnh người mẹ lam lũ, vất vả.
4. Học sinh viết đoạn văn thể hiện được tình cảm và thái độ đối với mẹ.

Các em có thể tham khảo đoạn văn sau:
“Lên non mới biết non cao, Có con mới biết công lao mẹ già!“. Trong mỗi nhịp đập của trái tim mình, ta luôn thấy hình bóng của mẹ yêu. Tình yêu của người mẹ hiền dành cho mỗi chúng ta không thể nói hết bằng lời. Và cho dù có đi đâu về đâu , dù thành công hay thất bại thì mẹ vẫn luôn bên ta, che chở, bảo vệ, động viên ta vững bước trên đường đời. Từ tận đáy lòng tôi luôn mong ước được nằm trong vòng tay âu yếm, trìu mến của mẹ, của gia đình! Thương mẹ, con nguyện sẽ gắng học thật tốt để rèn luyện bản thân , góp một phần nhỏ bé cho xã hội, đem lại nguồn vui, niềm hy vọng cho mẹ, cho gia đình thương yêu của mình.

Đề 4 :
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi
“Thời gian chạy qua tóc mẹ
Một màu trắng đến nôn nao
Lưng mẹ cứ còng dần xuống
Cho con ngày một thêm cao.”
(Trích “Trong lời mẹ hát” – Trương Nam Hương)
Câu 1 : Xác định các phương thức biểu đạt của đoạn thơ ?
Câu 2. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào? (0.25 điểm)
Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên. (0.25 điểm)
Câu 4. Xác định và nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ “Thời gian chạy qua tóc mẹ”. (0.5 điểm)
Câu 5. Từ đoạn thơ trên, anh/chị hãy viết đoạn văn (khoảng 5 đến 7 dòng) nêu cảm nhận về sự hi sinh thầm lặng của người mẹ trong cuộc sống ngày nay.

Đáp án :
Phương thức biểu đạt : Biểu cảm, miêu tả.
Thơ tự do
Nội dung chính của đoạn thơ trên: Bộc lộ niềm xót xa và lòng biết ơn của người con trước những hi sinh thầm lặng của người mẹ
Biện pháp nhân hoá : Thời gian- chạy. Tác dụng : Thể hiện ý nghĩa thời gian trôi nhanh làm cho mẹ già nua và bộc lộ niềm xót xa của người con đối với mẹ
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách, bộc lộ sự cảm nhận của cá nhân nhưng phải hợp lí và có sức thuyết phục. Bộc lộ tình cảm chân thành, không khuôn sáo

Đề 5 :

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ Câu 1 đến Câu 4:
Liên quan đến vụ tổ chức khủng bố IS đánh bom và xả súng đẫm máu ở Paris hôm 13-11- 2015 vừa qua, khiến 129 người thiệt mạng và cả thế giới bàng hoàng, tại buổi tưởng niệm các nạn nhân, một video của hãng truyền thông Le Petit Journal đã ghi lại cuộc đối thoại xúc động giữa một ông bố người Pháp gốc Việt và cậu con trai nhỏ về những kẻ khủng bố và thảm kịch vừa xảy ra. Chỉ sau thời gian ngắn, video này đã lan truyền chóng mặt trên các trang mạng xã hội và ngay lập tức nhận được hơn 11 triệu lượt chia sẻ trên Facebook.
Khi được hỏi về chuyện xảy ra ở Paris, cậu bé hồn nhiên cho biết, đó là do những người độc ác gây ra. Cậu bé còn nói cần phải chuyển nhà vì người độc ác có súng, có thể bắn chết người. Người bố ở bên cạnh dịu dàng trấn an con trai đừng nên lo lắng, sau đó còn dạy cậu bé: “Họ có súng còn chúng ta có hoa. Những bông hoa có thể chiến đấu chống lại những họng súng”.
(Theo danviet.vn)

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản là gì? (0.25 điểm)
Câu 2. Theo anh/chị, hình ảnh súng và hoa ở đây mang ý nghĩa gì? (0.5 điểm)
Câu 3. Viết một đoạn văn (từ 5 đến 7 dòng) trình bày suy nghĩ của anh/chị về lời nói dịu dàng trấn an con trai của người bố: Họ có súng còn chúng ta có hoa. Những bông hoa có thể chiến đấu chống lại những họng súng.
Đáp án :
Phương thức tự sự
Hình ảnh súng là biểu tượng cho chiến tranh, tội ác, xung đột, hận thù,… Hoa là biểu
tượng chỉ tình yêu, hoà bình, tình cảm giữa người với người
-Người bố nhắn nhủ con không nên lùi bước, sợ hãi trước cái xấu cái ác
-Hãy sống yêu thương , đoàn kết lại để đẩy lùi bóng tối của tội ác, lòng hận thù

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

TỰ SỰ

Dù đục, dù trong con sông vẫn chảy

Dù cao, dù thấp cây lá vẫn xanh

Dù người phàm tục hay kẻ tu hành

Cũng phải sống từ những điều rất nhỏ.

Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó

Sao ta không tròn ngay tự trong tâm?

Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm

Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng.

Nếu tất cả đường đời đều trơn láng

Chắc gì ta đã nhận được ra ta!

Ai trên đời cũng có thể tiến xa

Nếu có khả năng tự mình đứng dậy

Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy

Không chỉ để dành cho một riêng ai.

(Nguyễn Quang Vũ,  Hoa học trò, số 6,1994)

Câu 1. Xác định 2 phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên.

Câu 2. Anh/Chị hiểu thế nào về ý nghĩa 2 câu thơ sau:

” Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm

Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”.

Câu 3. Theo anh/chị, vì sao tác giả nói rằng:

” Nếu tất cả đường đời đều trơn láng

Chắc gì ta đã nhận được ra ta!”

Câu 4. Thông điệp nào của văn bản trên có ý nghĩa nhất đối với anh/chị?

Gợi ý :

1. 2 phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản là: nghị luận và biểu cảm
2 Ý nghĩa 2 câu thơ:

” Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm

Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”

“ Đất” theo nghĩa đen là nguồn sống, nguồn dinh dưỡng cho muôn hạt nảy mầm. “Đất” còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ cuộc đời rộng lớn, luôn tạo cơ hội cho mọi người. Hạnh phúc ở quanh ta nhưng không tự nhiên đến. Nếu muốn có cuộc sống tốt đẹp, muốn có hạnh phúc, tự mỗi người phải có suy nghĩ và hành động tích cực; phải nỗ lực vươn lên. Cũng như: “Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”.
3 Tác giả cho rằng:

” Nếu tất cả đường đời đều trơn láng

Chắc gì ta đã nhận được ra ta”

Bởi vì: “Đường đời trơn láng” tức là cuộc sống quá bằng phẳng, yên ổn, thuận lợi,  không có khó khăn, giông tố. Con người không được đặt vào hoàn cảnh có vấn đề, có thách thức; không phải nỗ lực hết mình để vượt qua trở ngại,  chinh phục thử thách mới đến được đích. Khi đó con người không có cơ hội để trải nghiệm nên cũng không khám phá  hết những gì mình có; không đánh giá hết ưu điểm cũng như nhược điểm của bản thân. Con người có trải qua thử thách mới hiểu rõ chính mình và trưởng thành hơn.
4 Học sinh có thể chọn một trong những thông điệp sau và trình bày suy nghĩ thấm thía của bản thân về  thông điệp ấy:

– Dù là ai, làm gì, có địa vị xã hội thế nào cũng phải sống từ những điều rất nhỏ.

– Con người có trải qua thử thách mới hiểu rõ chính mình và trưởng thành hơn.

– Muốn có được hạnh phúc phải tự mình nỗ lực vươn lên.

– Cuộc sống không phải lúc nào cũng như ta mong muốn, biết đòi hỏi nhưng cũng phải biết chấp nhận, biết nhìn đời bằng con mắt lạc quan, biết cho đi thì mới được nhận lại.

4. Củng cố

- Các kiến thức cơ bản về phần đọc – hiểu.

5. Dặn dò

- Ôn lại toàn bộ những kiến thức đã học về phần đọc – hiểu.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 06/09/2017

TIẾT 3-4.

ÔN TẬP ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

……………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng

- Luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản và tiếp nhận văn bản bằng việc luyện đề đọc hiểu văn bản.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Tư duy tổng hợp, vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học về văn bản; chăm chỉ và nỗ lực làm bài tập.

4. Định hướng phát triển năng lực HS

- Năng lực chung: Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực hợp tác.

- Năng lực riêng: cảm thụ thẩm mĩ, Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

B. PHƯƠNG TIỆN

- GV : Giáo án, tài liệu tham khảo, đề đọc hiểu.

- HS: Vở ghi.

C. PHƯƠNG PHÁP

- HS thực hành, thảo luận nhóm, GV hướng dẫn, chốt đáp án, khắc sâu những kiến thức quan trọng.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ : Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. ÔN TẬP LÍ THUYẾT

1. Những kiểu câu hỏi thường gặp trong đề đọc hiểu :

– Ở dạng câu hỏi nhận biết: Thường hỏi xác định phương thức biểu đạt, phong cách ngôn ngữ, tìm từ ngữ, hình ảnh, xác định cách trình bày văn bản…

– Ở dạng câu hỏi hiểu: Thường hỏi hs hiểu như thế nào về một câu nói trong văn bản; hỏi theo học sinh thì vì sao tác giả lại cho rằng, nói rằng…( kiểu hỏi này là để xem hs và tác giả có đồng quan điểm hay không); Kiểu câu hỏi theo tác giả… Ba kiểu hỏi này thường lặp đi lặp lại.

– Ở dạng câu hỏi vận dụng: Thường yêu cầu HS rút ra thông điệp có ý nghĩa, điều tâm đắc hoặc chỉ ra những việc làm cụ thể của bản thân.

- Những câu hỏi nâng cao nhằm phân hóa học sinh: Tập trung chủ yếu ở câu hỏi hiểu và vận dụng, yêu cầu HS vừa phải hiểu văn bản vừa phải có kiến thức sâu rộng từ thực tế chứ không chỉ dựa vào văn bản.

2. Phương pháp làm bài

*  Nắm vững 3 mức độ câu hỏi: Nhận biết, thông hiểu và vận dụng (thấp)

* Phương pháp chung

Bước 1: Phải đọc thật kỹ văn bản.

Bước 2: Đọc hết các câu hỏi một lượt, đồng thời gạch chân dưới trọng tâm mỗi câu hỏi

Bước 3: Lần lượt trả lời từng câu

* PP cụ thể với mỗi mức độ câu hỏi

– Ở câu nhận biết:

+ Cần lưu ý một số dấu hiệu: chính, chủ yếu, các, những, một, một số…

VD: Chỉ ra PTBĐ chính  đáp án chỉ có một, và phải chính xác

VD: Chỉ ra các PTBĐ  đáp án phải từ hai trở lên, chính xác

+ Cần phân biệt rõ các khái niệm: PTBĐ, PCNN, TTLL, Cách triển khai VB ( Hình thức lập luận) để tránh nhầm lẫn

+ Nếu yêu cầu nhận biết từ ngữ, hình ảnh: Cần đọc kĩ xen từ ngữ, hình ảnh đó hướng tới nghĩa gì. VD: Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh thuộc chất liệu văn học dân gian, Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh nhằm nhấn mạnh và khẳng định chủ quyền, Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh mang đặc trưng của thiên nhiên vùng Đồng bằng Bắc Bộ, chỉ ra các từ láy…

+ Cần nắm chắc các biện pháp tu từ đã học

– Ở câu thông hiểu:

+ Câu hỏi yêu cầu hiểu nghĩa của từ, câu: Vận dụng thao tác giải thích để giải quyết ( là gì?), với một câu dài, cần xem xét có bao nhiêu vế, hiểu lần lượt từng vế, sau đó mới khái quát nghĩa cả câu.

VD: Anh/ chị hiểu như thế nào về nghĩa của hai câu: “ Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầm

                                                                                        Những chồi non tự vươn lên mà sống”

. Đất là điều kiện, là môi trường sống chung cho mọi hạt giống

. Những chồi non phải tự mình vươn lên, sống khỏe mạnh hay yếu ớt đều là do tự mình quyết định

Nghĩa của hai câu: Muốn nói tới con người chúng ta ai sinh ra cũng có điều kiện được sống, còn sống như thế nào thì tự mình phải quyét định, phải nỗ lực vươn lên để khẳng định bản thân, sống có ích.
+ Nếu gặp câu hỏi “ Theo tác giả….”: Câu trả lời sẽ nằm ngay trên văn bản
VD: Theo tác giả, chúng ta sẽ được lợi ích gì khi “nhận thức được vẫn còn nhiều điều có thể học”? ( đề thử nghiệm của BỘ)

Đáp án: Chúng ta sẽ bổ sung được nhiều kiến thức mới

+ Nếu gặp câu hỏi “ theo anh/ chị, tại sao tác giả cho rằng…..”: Câu trả lời sẽ dựa trên ba căn cứ cơ bản sau:

++ Thứ nhất: Căn cứ vào nghĩa của câu mà tác giả cho rằng…

++ Thứ hai: Căn cứ vào  ngữ liệu trên văn bản

++ Thứ ba: Căn cứ vào sự hiểu biết của chúng ta

VD 1: Tại sao tác giả cho rằng “Biết đâu, trong một lần tò mò hay thắc mắc như vậy, bạn sẽ

tìm ra được niềm đam mê cho bản thân”?( đề thử nghiệm của BỘ)

Đáp án: Vì dù bạn có chọn cho mình một bộ môn nào đi nữa, dù là nghe nhạc cổ điển, đến thăm các viện bảo tàng hay các phòng trưng bày nghệ thuật hoặc đọc sách về các chủ đề khác nhau… thì bạn cũng nên theo học đến cùng và tìm hiểu nó không ngừng nghỉ cho đến khi đạt đến kiến thức sâu sắc về lĩnh vực đó mới thôi. Biết đâu, trong quá trình học với quyết tâm rèn luyện và củng cố trí tò mò nó sẽ trở thành cá tính của bạn. Nó sẽ trở thành niềm đam mê không thể buông bỏ lúc nào mà bạn không hay biết.

( Trường hợp này câu trả lời nằm ngay trên văn bản)

VD 2: Theo anh/chị, vì sao tác giả cho rằng: “Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời thực ra lại đến vào lúc các em nhận ra các em chẳng có gì đặc biệt cả.”?

Đáp án: Tác giả nói như vậy vì:

– Khi nhận ra mình “chẳng có gì đặc biệt cả” tức là các em hiểu rõ mình là ai, mình đang ở đâu, các em hiểu rằng thế giới ngoài kia kì vĩ, lớn lao, thú vị vô cùng. Và khi đó, các em sẽ có ý thức, có ham muốn, có niềm vui khi học hỏi, khám phá và chinh phục thế giới.

– Ngược lại, nếu tự mãn về bản thân, các em sẽ không tìm ra mục tiêu cho cuộc sống của mình, vì vậy, cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán, vô vị.

( Trường hợp này câu trả lời không có trên văn bản)

Tóm lại, đây là kiểu câu hỏi khó nhất đối với học sinh, các em có thể dựa trên ba căn cứ trên để tìm câu trả lời cho phù hợp.

+ Nếu yêu cầu nêu tác dụng của biện pháp tu từ: Cần chỉ rõ tác dụng về nội dung ( biện pháp đó giúp làm rõ nội dung như thế nào), và về hình thức (làm cho câu văn, câu thơ thêm sinh động, hấp dẫn, giàu hình ảnh, tạo sự cân đối nhịp nhàng…)

Ở câu vận dụng (thấp): Câu trả lời hoàn toàn do nhận thức, cách nghĩ của chúng ta

    + Nếu yêu cầu rút ra thông điệp: Có hai cách, một là chọn ngay một câu có ý nghĩa nhất làm thông điệp, hai là tự rút ra ý nghĩa của văn bản rồi chọn đó làm thông điệp. Sau đó đều phải lí giải vì sao anh/ chị chọn thông điệp đó.

( Lưu ý: Đây là câu hỏi vận dụng, có độ phân hóa cao, nên dù câu hỏi không yêu cầu giải thích vì sao, hs vẫn phải lí giải)

+ Nếu yêu cầu nêu lên điều anh/chị tâm đắc, hoặc một số việc làm cụ thể: Câu trả lời hoàn toàn dựa trên sự hiểu biết của hs, cần nêu được ít nhất ba nội dung, rõ ràng, tránh dài dòng.

Phân bố thời gian: Thời gian hợp lí dao động từ 20- 25 phút. Nếu quá thời gian trên mà vẫn chưa giải quyết hết thì phải dừng lại để làm phần II. Sau khi hoàn thành xong phần làm văn, tiếp tục suy nghĩ trả lời ( nếu còn thời gian).

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1 :
“Nắng trong mắt những ngày thơ bé
Cũng xanh mơn như thể lá trầu
Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau
Chở sớm chiều tóm tém
Hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm
Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài
Bóng bà đổ xuống đất đai
Rủ châu chấu, cào cào về cháu bắt
Rủ rau má, rau sam
Vào bát canh ngọt mát
Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình.”
(Thời nắng xanh, Trương Nam Hương)
Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên. (0,25 đ)
Câu 2: Xác định 02 biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong đoạn thơ trên. (0,5 đ)
Câu 3: Xác định thể thơ của bài thơ trên

Câu 4: Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên. (0,5 đ)
Gợi ý :
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính là phương thức biểu cảm.
Câu 2: Biện pháp so sánh
Cũng xanh mơn như thể lá trầu
Biện pháp liệt kê :
Rủ châu chấu, cào cào về cháu bắt
Rủ rau má, rau sam
Vào bát canh ngọt mát.
Câu 3: Thể thơ tự do.
Câu 4: Nội dung chính của đoạn thơ là kí ức của chủ thể trữ tình về tuổi thơ trong trẻo,
hồn nhiên và về người bà tảo tần khuya sớm

Đề 2 : Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:
(1) Hiện nay, công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng còn nhiều bất cập.
(2) Nguy cơ thất truyền, mai một của nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể và sự
xuống cấp của các di tích lịch sử vẫn còn ở mức báo động; việc phát huy giá trị các lễ hội
truyền thống còn nhiều hạn chế, hiện tượng thương mại hóa trong lễ hội chưa được ngăn
chặn một cách hiệu quả; sự hạn hẹp về kinh phí để bổ sung hiện vật cho bảo tàng; nạn
trộm cắp buôn bán cổ vật vẫn diễn ra phức tạp; tình trạng lấn chiếm di tích, danh lam
thắng cảnh; hiện tượng xây dựng trái phép, tu bổ di tích sai nguyên tắc chưa có biện pháp
ngăn chặn kịp thời…
(Giáo dục ý thức bảo vệ di sản văn hóa cho thế hệ trẻ – Nguyễn Bá Khiêm)
Câu 1: Hãy ghi lại câu văn nêu chủ đề của đoạn trích.(0,25 đ)
Câu 2: Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng những thao tác lập luận nào?(0,5 đ)
Câu 3: Hãy tìm thành phần phụ trong câu văn số (1) và gọi tên thành phần đó(0,25 đ)
Câu 4: Theo anh/chị, cần làm gì để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc?
Trả lời trong khoảng 10 dòng

Đáp án :

Câu 1: Câu chủ đề của đoạn là “Hiện nay, công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng còn nhiều bất cập”.
Câu 2: Những thao tác lập luận : bình luận, chứng minh.

Câu 3: Thành phần phụ trạng ngữ ” Hiện nay”.

Câu 4: Các em cần nêu được một số giải pháp để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc như:
• Phát huy các giá trị lễ hội truyền thống
• Ngăn chặn nạn thương mại hóa lễ hội, ăn cắp cổ vật…
• Giáo dục ý thức bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc cho nhân dân, nhất là giới trẻ
• Nhà trường cần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, có 2 nội dung liên quan đến bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa: Tổ chức đời sống văn hóa tinh thần trong nhà trường gắn với việc khai thác văn hóa dân gian; chăm sóc di sản gắn với tìm hiểu các di tích lịch sử, văn hóa.
• Các ngành liên quan cần phối hợp xây dựng và ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về giáo dục di sản, như hướng dẫn tổ chức học tập ở các bảo tàng, di tích, thư viện, danh lam thắng cảnh; biên soạn tài liệu giới thiệu di sản vật thể và phi vật thể một cách hoàn chỉnh; lập website về di sản. Di sản văn hóa là một bộ phận rất quan trọng của nền văn hóa dân tộc; là chứng tích cho sự phát triển của cộng đồng. Nhân dân lao động vừa là chủ nhân, vừa là lực lượng nòng cốt để xây dựng nên kho tàng di sản văn hóa ấy. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là trách nhiệm của toàn dân và của cả xã hội.

Đề 3 : Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi
Yêu Tổ quốc từ những giọt mồ hôi tảo tần. Mồ hôi rơi trên những cánh đồng cho lúa thêm hạt. Mồ hôi rơi trên những công trường cho những ngôi nhà thành hình, thành khối. Mồ hôi rơi trên những con đường nơi rẻo cao Tổ quốc của những thầy cô trong mùa nắng để nuôi ước mơ cho các em thơ. Mồ hôi rơi trên thao trường đầy nắng gió của những người lính để giữ mãi yên bình và màu xanh cho Tổ quốc…
1. Tìm và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong văn bản trên ?
2.Những từ ngữ: cánh đồng, công trường gợi cho em liên tưởng đến tầng lớp người nào
trong xã hội ?

3. Em hãy đặt tiêu đề cho văn bản trên.
Hướng dẫn cách làm :
1. – Phép điệp cấu trúc :Mồ hôi rơi
Mồ hôi rơi
trên những cánh đồng cho lúa thêm hạt. Mồ hôi rơi trên những công trường cho những ngôi nhà thành hình, thành khối. Mồ hôi rơi trên những con đường nơi rẻo cao Tổ quốc của những thầy cô trong mùa nắng để nuôi ước mơ cho các em thơ. Mồ hôi rơi trên thao trường đầy nắng gió…
– Tác dụng : Phép điệp nhấn mạnh những vất vả nhọc nhằn và sự hi sinh thầm lặng của người dân lao động. Qua đó, bộc lộ sự trân trọng, tin yêu với những con người lao động và tình yêu Tổ quốc .
2. Những từ ngữ: cánh đồng, công trường gợi liên tưởng đến người nông dân, công nhân trong cuộc sống.
3. Đặt nhan đề: Các em có thể đặt nhiều nhan đề khác nhau, nhưng cần ngắn gọn và thể hiện chủ đề của đoạn. Ví dụ có thể đặt là : Yêu Tổ quốc, hoặc Tổ quốc của tôi.

Đề 4 :
“Tôi muốn nhấn mạnh rằng. Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng thiêng. Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải dựa trên cơ sở đảm bảo độc lập, tự chủ. chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó.” (Nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)
Đọc bài phát biểu trên và thực hiện những yêu cầu sau:
Câu 1: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong bài phát biểu trên đã sử dụng phép liên kết nào? Giá trị của những phép liên kết đó?
Câu 2: Phương thức biểu đạt chính của lời phát biểu trên là gì?
Câu 3: Viết đoạn văn khoảng 100 từ trình bày suy nghĩ của anh, chị về lòng yêu nước của giới trẻ hiện nay cũng như sự quan tâm của Đảng và nhà nước đối với việc phát huy truyền thống tốt đẹp này.
Gợi ý trả lời:
Câu 1:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong bài phát biểu trên đã sử dụng hai phép liên kết:
+ Phép lặp: Lặp từ “chủ quyền” và từ “thiêng liêng”

=> Tác dụng: Tạo tính liên kết chặt chẽ cho đoạn văn, nhấn mạnh chủ quyền thiêng liêng của dân tộc.
+ Phép thế: Thế từ “điều thiêng liêng này” thay cho từ “Chủ quyền và lợi ích chính đáng”.
Câu 2: Phương thức biểu đạt chính của lời phát biểu trên: Nghị luận.
Câu 3: Yêu cầu bài viết:
Xác định được hai nội dung:
+ Lòng yêu nước của thế hệ trẻ hiện nay:
Thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay đã, đang tiếp nối truyền thống yêu nước quý báu, vẻ vang của dân tộc.
Biểu hiện cụ thể lòng yêu nước của giới trẻ hiện nay là trong công cuộc xây dựng, bảo
vệ tổ quốc, đưa đất nước sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
+ Sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta đối với việc phát huy truyền thống yêu nước của các thế hệ người Việt Nam:
Khuyến khích nhân dân thực hiện phong trào yêu nước: “Thi đua là yêu nước, yêu nước là phải thi đua”.
Tuyên truyền, vận động để người dân có thể phát huy được cao nhất truyền thống yêu nước.
Bên cạnh đó nhà nước cũng có những chính sách, những chỉ đạo để lòng yêu nước của nhân dân đi đúng hướng.
Ví dụ:
Lòng yêu nước là một truyền thống quý báu,vẻ vang của dân tộc ta, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sục sôi với bầu nhiệt huyết “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Trong thời điểm hòa bình hiện nay lòng yêu nước vẫn là dòng chảy của mạch ngầm nhưng theo những xu hướng mới, đặc biệt là ở giới trẻ hiện nay. Mặc dù không phải đương đầu với mưa bom bão đạn để bảo vệ tổ quốc nhưng giới trẻ hiện nay đang phải đối mặt với những thách thức vô cùng khó khăn trên các đấu trường quốc tế ở nhiều lĩnh vực khác nhau để bảo vệ tổ quốc và đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu, phát triển đất nước. Họ làm việc không ngừng nghỉ để bảo vệ đất nước khỏi các thế lực thù địch, các thế lực phản động. Nhà nước ta đặc biệt quan tâm tới việc phát huy truyền thống yêu nước của các thế hệ người Việt Nam. Đảng và nhà nước ta khuyến khích nhân thực hiện phong trào yêu nước: “thi đua là yêu nước, yêu nươc là phải thi đua”. Tuyên truyền, vận động người dân có thể phát huy cao nhất truyền thống yêu nước. Bên cạnh đó Đảng và nhà nước ta cũng có những chính sách, những chỉ đạo để lòng yêu nước của nhân dân đi đúng hướng.

Đề 5 : Mẹ và quả
“Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Khi mặt trời khi như mặt trăng
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống

Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Và chúng tôi - một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh ?”
(Nguyễn Khoa Điềm)
1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của bài thơ?
2. Nêu nội dung chính của bài thơ?( trả lời trong khoảng 5-7 dòng)
3. Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật ở hai câu thơ:
“Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh ?”
4. Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về hai câu thơ:
“Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi”
ĐÁP ÁN
1. Phương thức biểu cảm.
2. Nội dung chính của bài thơ: Bằng sự trải nghiệm cuộc sống, với một tâm hồn giàu duy
tư trăn trở trước lẽ đời, Nguyễn Khoa Điềm đã thức nhận được mẹ là hiện thân của sự vun trồng bồi đắp để con là một thứ quả ngọt ngào, giọt mồ hôi mẹ nhỏ xuống như một thứ suối nguồn bồi đắp để những mùa quả thêm ngọt thơm. Quả không còn là một thứ quả bình thường mà là “quả” của sự thành công, là kết quả của suối nguồn nuôi dưỡng. Những câu thơ trên không chỉ ngợi ca công lao to lớn của mẹ, của thế hệ đi trước với thế hệ sau này mà còn lay thức tâm hồn con người về ý thức trách nhiệm, sự đền đáp công ơn sinh thành của mỗi con người chúng ta với mẹ.
3. Nghệ thuật hoán dụ: Bàn tay mẹ mỏi: chỉ sự già nua và sự ra đi của mẹ.
Nghệ thuật ẩn dụ quả xanh non, chỉ sự dại dột hay chưa trưởng thành của người con,
câu hỏi tu từ: Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
Tác dụng: Tạo điểm nhấn về lòng biết ơn và sự ân hận như một thứ “tự kiểm” về sự chậm trễ thành đạt của người con chưa làm thỏa được niềm vui của mẹ.
4. Có thể nói đây là những câu thơ tài hoa nhất trong bài, khắc sâu sự hy sinh thầm lặng của mẹ và lòng biết ơn vô bờ của người con về công dưỡng dục sinh thành của mẹ hiền. Hình ảnh “chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn” là kiểu hình ảnh so sánh, ví von dáng bầu bí như giọt mồ hôi mặn của mẹ. Đó là hình tượng giọt mồ hôi nhọc nhằn, kết tụ những vất vả hi sinh của mẹ. Câu thơ “Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi” gợi lên dáng vẻ âm thầm trong vất vả nhọc nhằn của mẹ để vun xới những mùa quả tốt tươi.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Đọc đoạn thơ và trả lời các câu hỏi sau:
“ Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.”
(“Sáng tháng năm” – Tố Hữu)
1. Từ “Người” ở đây nói đến ai. Dựa vào đâu anh/chị biết được điều này ? (0,5 điểm)
2. Xác định 02 biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong đoạn thơ trên. (0,5 điểm)
3. Cho biết ý nghĩa của cụm từ “mặt trời cách mạng”. (0,25 điểm)
4. Đoạn thơ thể hiện tình cảm gì của tác giả ? (0,25 điểm)
Đáp án:
1.– Từ “Người” là từ gọi Bác Hồ.
– Dấu hiệu nhận biết:

+ Từ “Người” theo cách viết thông thường không viết hoa. “Người” được viết hoa là cách viết thể hiện lòng tôn kính đối với Bác, là một trong những cách gọi Bác.
+ Câu thơ có hình ảnh “mặt trời” – một hình ảnh đẹp đẽ, lớn lao, kì vĩ , chỉ có một trong vũ trụ – thường để ví với Bác; từ “cách mạng” chỉ cách mạng vô sản, là Đảng mà Bác là người sáng lập…
2.Nêu được hai trong 3 biện pháp tu từ được sử dụng: ẩn dụ ( mặt trời- Bác Hồ)
So sánh :đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đối lập (hoặc tương phản).
3.– Ý nghĩa của cụm từ “mặt trời cách mạng”: hình ảnh Bác cao quý, sáng ngời, vĩ đại như mặt trời mang lại sự sống cho nhân loại vì Bác đã mang đến cho dân tộc ViệtNam cuộc sống tự do, hạnh phúc, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tối tăm.
4.– Tình cảm của nhà thơ Tố Hữu qua đoạn thơ: ngợi ca công lao vĩ đại của Bác, bày tỏ lòng kính yêu đối với Bác; khinh bỉ bọn thực dân, đế quốc.

4. Củng cố

- Các kiến thức cơ bản về phần đọc – hiểu.

5. Dặn dò

- Ôn lại toàn bộ những kiến thức đã học về phần đọc – hiểu.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 07/09/2017

TIẾT 5-6.

ÔN TẬP ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

……………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng

- Luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản và tiếp nhận văn bản bằng việc luyện đề đọc hiểu văn bản.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Tư duy tổng hợp, vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học về văn bản; chăm chỉ và nỗ lực làm bài tập.

4. Định hướng phát triển năng lực HS

- Năng lực chung: Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực hợp tác.

- Năng lực riêng: cảm thụ thẩm mĩ, Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

B. PHƯƠNG TIỆN

- GV : Giáo án, tài liệu tham khảo, đề đọc hiểu.

- HS: Vở ghi.

C. PHƯƠNG PHÁP

- HS thực hành, thảo luận nhóm, GV hướng dẫn, chốt đáp án, khắc sâu những kiến thức quan trọng.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ : Kiểm tra bài tập về nhà của HS .

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG
Đề 1 :

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:
… Song song với một loạt những tiến bộ kĩ thuật trong cuộc sống thường nhật của bạn, kết nối mạng trong tương lai còn hứa hẹn một loạt tiến bộ đáng kinh ngạc về “chất lượng cuộc sống”: bạn sẽ sống khỏe mạnh hơn, an toàn hơn và tham gia nhiều hơn các hoạt động chính trị, xã hội…
Các thiết bị, màn hình và những máy móc khác nhau trong căn hộ tương lai của bạn không chỉ có giá trị tiện ích – chúng còn là nguồn cung cấp giải trí, bổ sung kiến thức trí tuệ và văn hóa, thư giãn và những cơ hội để sẻ chia với những người khác. Tiến bộ chủ yếu trong tương lai là khả năng đặt dấu ấn cá nhân trong cuộc sống của bạn. Bạn sẽ có thể tùy biến các thiết bị của mình – hay hầu hết các công nghệ xung quanh bạn cho phù hợp với nhu cầu của bạn, để môi trường quanh bạn thể hiện các sở thích riêng của bạn. Mọi người có thể sắp xếp hình ảnh, kí ức của cuộc sống quá khứ của mình mà không phải phụ thuộc vào các cuốn album hình thật ngoài đời hay album ảo trên mạng, mặc dù cả hai đều sẽ vẫn tồn tại. Kỹ thuật chụp hình và quay video trong tương lai sẽ cho phép bạn phóng bất cứ hình ảnh tĩnh hay động nào mà album đã chụp dưới hình thức ảnh ba chiều…
(Eric Schmidt – Jared Conhen, Sống sao trong thời đại số? NXB Trẻ, 2014)
Câu 1: Đoạn trích trên đề cập đến vấn đề gì? (0.5 điểm)
Câu 2: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích? (0.5 điểm)
Câu 3: Theo tác giả đoạn trích: “Các thiết bị, màn hình và những máy móc khác nhau trong căn hộ tương lai của bạn” có các giá trị nào? (0. 25 điểm)
Câu 4: Anh/ chị có muốn được sống trong thế giới với “những tiến bộ đáng kinh ngạc” về “chất lượng cuộc sống” như tác giải của đoạn trích đề cập đến hay không? Vì sao?
Đề 2.

Đọc đoạn văn sau đây và trả lời các câu hỏi từ Câu 5 đến Câu 8:
(1) Làng tôi là một làng nghèo nên chẳng nhà nào thừa đất để trồng hoa mà ngắm. Tuy vậy, đi trong làng, tôi luôn thấy những làn hương quen thuộc của đất quê. Đó là những mùi thơm mộc mạc, chân chất.
(2) Chiều chiều hoa thiên lí cứ thoảng nhẹ đâu đây, lọc qua không khí rồi bay nhẹ đến, rồi thoáng cái lại bay đi. Tháng ba, tháng tư hoa cúc thơm lạ lùng. Tháng tám, tháng chín, hoa ngây cứ nồng nàn những viên trừng cua tí tẹo, ẩn sau tầng lá xanh rậm rạp. Tưởng như có thể sờ được, nắm được những làn hương ấy.
(3) Ngày mùa, mùi thơm từ đồng thơm vào, thơm trên đường làng, thơm ngoài sân đình, sân hợp tác, thơm trên các ngõ, đó là hương cốm, hương lúa, hương rơm rạ, cứ muốn căng lồng ngực ra mà hít thở đến no nê, giống như hương thơm từ nồi cơm gạo mới, mẹ bắc ra và gọi cả nhà ngồi quanh mâm.
(4) Mùa xuân, ngắt một cái lá chanh, lá bưởi, một lá xương sông, một chiếc lá lốt, một nhánh hương nhu, nhánh bạc hà… hai tay mình như cũng đã biến thành lá, đượm mùi thơm mãi không thôi.
(5) Nước hoa ư? Nước hoa chỉ là một thứ hăng hắc giả tạo, làm sao bằng được mùi rơm rạ trong nắng, mùi hoa bưởi trong sương, mùi hoa ngâu trong chiều, mùi hoa sen trong gió…
(6) Hương làng ơi, cứ thơm mãi nhé!

(Băng Sơn – Hương làng)
Câu 5: Tình cảm chủ đạo của tác giả trong văn bản trên là gì? (0.5 điểm)
Câu 6: Nêu nội dung chính của các đoạn (2), (3), (4) trong văn bản trên (0.5 điểm)
Câu 7: Tác giả muốn nói gì qua câu: “Hương làng ơi, cứ thơm mãi nhé!”(0.25 điểm)
Câu 8: Anh/chị có đồng tình với quan niệm sau của tác giả hay không? Vì sao?

“Nước hoa ư? Nước hoa chỉ là một thứ hăng hắc giả tạo, làm sao bằng được mùi rơm rạ trong nắng, mùi hoa bưởi trong sương, mùi hoa ngâu trong chiều, mùi hoa sen trong gió.”
Trả lời
Câu 1 :
Văn bản đề cập đến sự tiến bộ đáng kinh ngạc về KHKT và tiện ích của các thiết bị, màn hình và những máy móc khác nhau trong căn hộ tương lai của con người
Câu 2 :
Phương thức nghị luận
Câu 3 : theo tác giả, “Các thiết bị, màn hình và những máy móc khác nhau trong căn hộ tương lai của bạn” có giá trị về “chất lượng cuộc sống”: bạn sẽ sống khỏe mạnh hơn, an toàn hơn và tham gia nhiều hơn các hoạt động chính trị, xã hội…chúng còn là nguồn cung cấp giải trí, bổ sung kiến thức trí tuệ và văn hóa, thư giãn và những cơ hội để sẻ chia với những người khác, bạn có khả năng đặt dấu ấn cá nhân trong cuộc sống của mình.
Câu 4 : HS có thể trả lời ” có ” hoặc ” không” ,miễn là có sự lí giải hợp lí và thuyết phục
Câu 5: Tình cảm chủ đạo của tác giả Băng Sơn là niềm tự hào, tình yêu tha thiết đối với quê hương, ngôi làng của mình, đặc biệt là ấn tượng về mùi thơm đặc trưng của làng quê mình.
Câu 6 : Nội dung chính của các đoạn 2-3-4 : nói về những mùi thơm cụ thể của làng mình và sự lan tỏa của nó trong không gian
Câu 7 : Qua câu: “Hương làng ơi, cứ thơm mãi nhé!”, tác giả muốn bày tỏ :
-Niềm tự hào trước vẻ đẹp quê hương
-Niềm khát khao gìn giữ những nét đẹp văn hóa quê hương.

Câu 8: HS có thể trả lời ” có” hoặc ” không” . Nhưng trả lời “có ” sẽ được điểm cao hơn
Lí giải : Đó là những mùi thơm tự nhiên, dịu dàng, bền vững và “lành” chứ không giả tạo như mùi nước hoa.

Đề 3 : Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
“(…)Tuổi thơ chân đất đầu trần
Từ trong lấm láp em thầm lớn lên
Bây giờ xinh đẹp là em
Em ra thành phố dần quên một thời
Về quê ăn Tết vừa rồi
Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò

Gặp tôi, em hỏi hững hờ
“Anh chưa lấy vợ, còn chờ đợi ai?”
Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ… một khoảng trời pha lê.
Trăng vàng đêm ấy bờ đê
Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may…”
(Phạm Công Trứ)
1.Xác định các phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ? (0.5đ)
2. Anh/chị hiểu như thế nào về hai câu thơ: (0.5đ)
“Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ… một khoảng trời pha lê”?
3. Anh/chị nhận xét như thế nào về hai nhân vật trữ tình “tôi” và “em” trong đoạn thơ ?
Đáp án
1.Xác định các phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ : Tự sự, biểu cảm
2.– Sự vô tâm, vô tình của “em”
– Tâm trạng nuối tiếc, hụt hẫng, ngỡ ngàng của “tôi” trước sự thay đổi của “em”

3. Nêu nhận xét về hai nhân vật trữ tình “tôi” và “em” trong đoạn thơ :
+ “Tôi”: giàu tình cảm, thủy chung, hồn nhiên tin yêu và đợi chờ.
+ “Em”: vô tâm, vô tình, dễ đổi thay.

Đề 4 : Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi
Con đê dài hun hút như cuộc đời. Ngày về thăm ngoại, trời chợt nắng, chợt râm.
Mẹ bảo:
– Nhà ngoại ở cuối con đê.
Trên đê chỉ có mẹ, có con. Lúc nắng mẹ kéo tay con:
– Đi nhanh lên kẻo nắng vỡ đầu ra.
Con cố.
Lúc râm con đi chậm, mẹ mắng:
– Đang lúc mát trời, nhanh lên kẻo nắng bây giờ!
Con ngỡ ngàng: Sao nắng, sao râm đều phải vội?
Trời vẫn nắng vẫn râm…
Mộ mẹ cỏ xanh, con mới hiểu: Đời, lúc nào cũng phải nhanh lên.
(Theo vinhvien.edu.vn)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?
Câu 2. “Trên đê chỉ có mẹ, có con. Lúc nắng mẹ kéo tay con:
– Đi nhanh lên kẻo nắng vỡ đầu ra.”
Xác định biện pháp tu từ và hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng biện pháp đó?

Câu 3. Nêu nội dung chính của văn bản trên?
Câu 4. Viết một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) về bài học mà anh/ chị rút ra từ văn bản trên?
Đáp án:
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản: phương thức biểu cảm/ biểu cảm.
Câu 2.biện pháp nói quá/cường điệu/thậm xưng.
Hiệu quả nghệ thuật: nắng vỡ đầu ra làm tăng sức gợi hình, gây ấn tượng về cái nắng gay gắt.
Câu 3. Nội dung chính của văn bản: Những khó khăn, thử thách khắc nghiệt trong cuộc đời và những cơ hội, thuận lợi đến với mỗi người trong cuộc sống.
Câu 4. Bài học mà người con rút ra:
Cần phải biết vượt qua những khó khăn, thử thách khắc nghiệt trong cuộc đời, đồng thời
phải biết nắm bắt và tận dụng cơ hội để đạt đến đích.

Đề 5 : Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
“Con ong làm mật, yêu hoa
Con cá bơi, yêu nước; con chim ca, yêu trời
Con người muốn sống, con ơi
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.
Một ngôi sao chẳng sáng đêm
Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng
Một người – đâu phải nhân gian
Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi!”

( Trích “Tiếng ru” – Tố Hữu)
1. Xác định thể thơ của đoạn thơ trên. Lí giải vì sao xác định như vậy?
2. Trong 4 dòng thơ đầu, biện pháp tu từ chủ yếu nào được sử dụng? Tác dụng của biện pháp ấy?
3. Thông điệp mà tác giả muốn nhắn gửi qua bài thơ “Tiếng ru” ?

Đáp án
1. Thể thơ: lục bát.
Lí giải: số tiếng: 6-8, hài thanh, hiệp vần, ngắt nhịp theo luật thơ lục bát. Trong đoạn thơ: dòng thứ 2 là thơ lục bát biến thể.
2. Trong 4 dòng thơ đầu, biện pháp tu từ chủ yếu được sử dụng là phép điệp/ điệp cấu trúc/ lặp cú pháp/ điệp từ. Tác dụng: Nhịp thơ thiết tha, nhấn mạnh ý thơ cần nhắn nhủ.
3. Viết 5 – 7 dòng nêu cảm nhận về tiếng ru cũng là lời nhắn nhủ: cần phải sống giàu yêu thương, gắn bó với đồng chí, đồng bào, anh em… để cùng nhau xây đắp cuộc sống tươi đẹp.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Đọc câu chuyện “ Quà tặng cuộc sống ” và trả lời các câu hỏi :
“Anh dừng lại mua hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện nhân ngày 8/3. Mẹ anh sống cách chỗ anh ở khoảng 300km. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao lại khóc.
– Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu – nó nức nở – nhưng cháu chỉ có 75 xu trong khi giá bán hoa hồng đến 20 dola.
Anh mỉm cười và nói với nó:
– Đến đây chú sẽ mua cho cháu.
Anh liền mua cho cô bé và đặt một bó hồng gửi cho mẹ anh. Xong xuôi, anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về nhà không. Nó vui mừng nhìn anh trả lời:
– Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu.
Nó chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có phần mộ vừa mới đắp. Nó chỉ vào ngôi mộ và nói:
– Đây là nhà của mẹ cháu.
Nói xong, nó ân cần đặt bông hoa hồng lên mộ. Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa hủy bỏ dịch vụ gửi hoa và mua một bó hoa hồng thật đẹp. Suốt đêm đó anh đã lái xe một mạch 300km về nhà để trao tận tay mẹ bó hoa.”
(Quà tặng cuộc sống)
1.Nội dung câu chuyện trên là gì?

2.Theo anh/chị hai nhân vật: em bé và anh thanh niên, ai là người con hiếu thảo? Vì sao?
3.Tại sao người thanh niên lại hủy điện hoa để cả đêm lái xe về trao tận tay mẹ bó hoa?

4.Thông điệp mà văn bản muốn gửi lại cho chúng ta là gì?
5.Đọc xong văn bản trên, anh/chị nghĩ đến câu tục ngữ hay ca dao nào? Hãy ghi lại câu tục ngữ hay ca dao đó.

Đáp án
1. Nội dung câu chuyện: ngợi ca lòng hiếu thảo của cô bé mồ côi và bài học về cách ứng xử với các đấng sinh thành trong cuộc sống.
2. Trong câu chuyện trên, cả cô bé và anh thanh niên đều là những người con hiếu thảo.
Vì cả hai người đều nhớ đến mẹ, đều biết cách thể hiện lòng cảm ơn đến mẹ. Tuy nhiên hành động cảm ơn của hai người lại bộc lệ theo hai cách khác nhau. Mẹ cô bé đã mất, cô vẫn muốn tự tay đặt bó hoa hồng lên mộ mẹ. Anh thanh niên cũng muốn tặng mẹ hoa nhưng vì xa xôi nên muốn dùng dịch vụ gửi quà. Nhưng sau khi chứng kiến tình cảm của cô bé dành cho mẹ anh đã nhận ra được ý nghĩa thực sự của món quà.
3. Người thanh niên hủy điện hoa vì anh được đánh thức bởi hành động cảm động của cô bé. Vì anh hiểu ra rằng, bó hoa kia không mang lại hạnh phúc và niềm vui bằng việc anh xuất hiện cùng với tình cảm chân thành của mình dành cho mẹ. Và điều mẹ cần ở anh là thấy anh mạnh khỏe, an toàn. Đó là món quà ý nghĩa nhất với mẹ.
4. Thông điệp mà văn bản muốn gửi lại cho chúng ta là: cần yêu thương trân trọng đấng sinh thành, nhất là người mẹ đã chịu nhiều vất vả, hi sinh. Trao và tặng là cần thiết nhưng trao và tặng như thế nào mới là ý nghĩa là điều mà không phải ai cũng làm được.
5. Có thể dẫn ra một trong những câu ca dao, tục ngữ sau:

- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
- Chiều chiều ngó ngược, ngó xuôi
Ngó không thấy mẹ, bùi ngùi nhớ thương.
- Mẹ già đầu bạc như tơ
Lưng đau con đỡ, mắt mờ con nuôi.

4. Củng cố

- Các kiến thức cơ bản về phần đọc – hiểu.

5. Dặn dò

- Ôn lại toàn bộ những kiến thức đã học về phần đọc – hiểu.

- Chuẩn bị bài : Ôn tập viết đoạn văn nghị luận xã hội.

Ngày soạn : 14/09/2017

TIẾT 7-8. ÔN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng

- Biết cách làm các dạng đề nghị luận xã hội :

+ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.

+Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

+ Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Rèn luyện tư duy khoa học, nâng cao kiến thức về xã hội, có ý thức bênh vực cái đúng, phê phán cái sai. Tích cực, chăm chỉ viết bài.

4. Định hướng phát triển năng lực HS

- Năng lực chung: Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực hợp tác.

- Năng lực riêng: cảm thụ thẩm mĩ, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

B. PHƯƠNG TIỆN

- GV: Giáo án, tài liệu tham khảo.

- HS: vở ghi.

C. PHƯƠNG PHÁP

GV chủ yếu dùng phương pháp đàm thoại, giúp HS củng cố lí thuyết, rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. ÔN TẬP LÍ THUYẾT

1. Yêu cầu của một bài nghị luận xã hội:

1.1. Yêu cầu chung:

- Đảm bảo những đặc trưng cơ bản của thể văn NLXH: có hệ thống luận điểm chặt chẽ, hướng vào luận đề, có luận cứ để làm sáng tỏ mỗi luận điểm và tìm được những dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu, đáng tin cậy và giàu sức thuyết phục.

- Đảm bảo những kiến thức mang màu sắc chính trị - xã hội: có những hiểu biết nhất định về các vấn đề thời sự, chính trị- xã hội nóng bỏng của đất nước; có những hiểu biết về chính trị-xã hội…….

- Đảm bảo mục đích, tư tưởng: Những vấn đề nghị luận phải có ý nghĩa thiết thực, có tính thời sự và tính giáo dục cao, có ý nghĩa hướng đạo giúp chúng ta có những nhận thức và suy nghĩ đúng đắn về cuộc sống.

1.2. Yêu cầu cụ thể:

* Về cấu trúc :

Một bài nghị luận xã hội thường bao gồm :

  • Giải thích khái niệm ( tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng đời sống )
  • Phân tích, bàn luận về vấn đề đặt ra
  • Đánh giá, liên hệ thực tiễn và rút ra bài học cho bản thân.

Chú ý: Cấu trúc này có thể thay đổi linh hoạt tuỳ theo từng đề bài cụ thể.

* Về hình thức:

Trình bày rõ ràng, mạch lạc , khoa học theo bố cục 3 phần của một bài làm văn ( hoặc đoạn văn theo yêu cầu )

* Về thao tác lập luận :

Bài văn NLXH nào cũng vận dụng các thao tác như sau:

Giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ. Tuy nhiên 3 thao tác không thể thiếu là : Giải thích, chứng minh, bình luận.

Căn cứ vào đặc trưng của thể văn NLXH các thao tác lập luận cần đạt được những yêu cầu sau:

< 1 > Giải thích:

- Mục đích: Giúp người nghe ( đọc) hiểu vấn đề.

- Các bước:

+ Làm rõ vấn đề được nêu ra ở đề. Nếu vấn đề thể hiện dưới dạng là một câu trích dẫn khá nổi tiếng nào đó hoặc một ý tưởng do người ra đề đề xuất, người viết cần lần lượt giải nghĩa, làm rõ nghĩa của vấn đề theo cách đi từ khái niệm đến các vế câu và cuối cùng là toàn bộ ý tưởng được trích dẫn. Khi vấn đề được diễn đạt theo kiểu ẩn dụ bóng bẩy thì phải giải thích cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ ngữ. Nếu vấn đề là một hiện tượng đời sống, người viết cần cho biết đó là hiện tượng gì, hiện tượng đó biểu hiện ra sao, dưới các hình thức nào (miêu tả, nhận diện)...

Làm tốt bước giải nghĩa này sẽ hiểu đúng vấn đề, xác định đúng vấn đề (hoặc mức độ) cần giải thích để chọn lí lẽ cần thiết.

Trong quan niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả lời câu hỏi LÀ GÌ?

+ Tìm hiểu cơ sở của vấn đề: Trả lời tại sao có vấn đề đó (xuất phát từ đâu có vấn đề đó). Cùng với phần giải nghĩa, phần này là phần thể hiện rất rõ đặc thù của thao tác giải thích. Người viết cần suy nghĩ kĩ để có cách viết chặt chẽ về mặt lập luận, lô gíc về mặt lí lẽ, xác đáng về mặt dẫn chứng.

Trong quan niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả lời câu hỏi TẠI SAO.

+ Nêu hướng vận dụng của vấn đề: Vấn đề được vận dụng vào thực tiễn cuộc sống như thế nào. Hiểu nôm na, phần này yêu cầu người viết thể hiện quan điểm của mình về việc tiếp thu, vận dụng vấn đề vào cuộc sống của mình như thế nào.

Trong quan niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả lời câu hỏi NHƯ THẾ NÀO?

**Lưu ý:

+ Nên đặt trực tiếp từng câu hỏi (LÀ GÌ, TẠI SAO, NHƯ THẾ NÀO) vào đầu mỗi phần (mỗi bước) của bài văn. Mục đích đặt câu hỏi: để tìm ý (phần trả lời chính là ý, là luận điểm được tìm ra) và cũng để tạo sự chú ý cần thiết đối với người đọc bài văn. Cũng có thể không cần đặt trực tiếp ba câu hỏi (LÀ GÌ, TẠI SAO, NHƯ THẾ NÀO) vào bài làm nhưng điều quan trọng là khi viết, người làm bài cần phải có ý thức mình đang lần lượt trả lời từng ý, từng luận điểm được đặt ra từ ba câu hỏi đó. Tuỳ theo thực tế của đề và thực tế bài làm, bước NHƯ THẾ NÀO có khi không nhất thiết phải tách hẳn riêng thành một phần bắt buộc.

< 2 > Chứng minh:

- Mục đích: Giúp người nghe ( đọc ) tin vào ý kiến người viết

- Các bước:

+ Xác định chính xác điều cần chứng minh, phạm vi cần chứng minh.

+ Dùng dẫn chứng trong thực tế cuộc sống để minh hoạ nhằm làm sáng tỏ điều cần chứng minh, phạm vi cần chứng minh.

< 3 > Bình luận:

- Mục đích: Giúp người nghe ( đọc ) đồng tình với ý kiến người viết.

- Các bước:

+ Nêu, giải thích rõ vấn đề (hiện tượng) cần bình luận.

+ Dùng lí lẽ và dẫn chứng (chủ yếu là lí lẽ) để khẳng định giá trị của vấn đề hoặc hiện tượng (giá trị đúng hoặc giá trị sai). Làm tốt phần này chính là đã bước đầu đánh giá được vấn đề (hiện tượng) cần bình luận.

+ Bàn rộng và nhìn vấn đề (hiện tượng) cần bình luận dưới nhiều góc độ (thậm chí từ góc độ ngược lại) để có cái nhìn đầy đủ hơn.

- Khẳng định tác dụng, ý nghĩa của vấn đề trong cuộc sống hiện tại.

2. Các bước viết kiểu bài nghị luận xã hội:

2.1. Tìm hiểu đề :

- Trước khi tìm hiểu đề phải thực hiện ba thao tác

+ Đọc kĩ đề

+ Gạch chân những từ then chốt, những khái niệm khó

+ Chú ý các dấu hiệu ngăn vế ( nếu có ).

- Xác định các yêu cầu:

+ Vấn đề cần nghị luận ( luận đề cần trao đổi, bàn bạc là gi? )

+ Nội dung cần nghị luận ( gồm những ý nào ?)

+ Thao tác lập luận chính ( 6 thao tác ở mục 3 )

+ Phạm vi dẫn chứng ( trong văn học, ngoài xã hội)

2.2. Lập dàn ý:

- Vạch ra các ý lớn, những luận điểm chính, trên cơ sở đó cụ thể thành các ý nhỏ.

- Lựa chọn, sắp xếp ý thành một hệ thống chặt chẽ và bao quát được nội dung cơ bản.

- Các bước:

<I> Mở bài:

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

<II> Thân bài:
Kết hợp các thao tác lập luận để làm rõ vấn đề nghị luận.
- Giải thích khái niệm của đề bài
- Phân tích các khía cạnh của vấn đề đặt ra
- Mở rộng bàn bạc bằng cách đi sâu vào vấn đề nào đó - một khía cạnh. Phần này phải cụ thể, sâu sắc, tránh chung chung.

-Đánh giá, liên hệ thực tiễn, rút ra bài học liên hệ cho bản thân.
<III> Kết bài: Tổng kết nội dung đã trình bày , mở rộng, nâng cao vấn đề.

- Yêu cầu:

+ Trình bày đủ 3 phần, câu văn rõ ràng mạch lạc đáp ứng yêu cầu của đề.

+ Triển khai nội dung theo hệ thống luận điểm, luận cứ mạch lạc, chặt chẽ.

2.3. Tạo lập đoạn văn và văn bản

* Viết đoạn văn:

- Hình thức: Đầy đủ các phần mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.

- Nội dung:

+ Câu mở đoạn: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

+ Câu phát triển đoạn:

. Giải thích vấn đề cần nghị luận

. Phân tích biểu hiện, nguyên nhân vấn đề , biện pháp thực hiện.

. Đánh giá khái quát.

+ Câu kết đoạn: Bài học cho bản thân.

- Yêu cầu :

+ Chỉ được trình bày bằng một đoạn văn

+ Viết đủ số dòng, số câu theo yêu cầu của đề.

+ Câu văn phải rõ ràng, mạch lạc.

* Viết bài văn:

- Hình thức: Đầy đủ 3 phần ( Mở bài, thân bài, kết bài )

- Nội dung và yêu cầu: ( mục b phần dàn ý )

Lưu ý:

- Bài văn nghị luận xã hội thường bàn về những vấn đề rất quen thuộc trong đời sống, không xa lạ với các em học sinh. Tuy nhiên do thiếu hiểu biết về đời sống nên các em thường lúng túng, viết lan man, xa đề.

- Sức mạnh của văn nghị luận nằm ở dẫn chứng sinh động, cụ thể và tiêu biểu. Là ở lí lẽ đưa ra phải dựa trên những chân lí đã được thừa nhận.

- Phải thường xuyên cập nhật thông tin thời sự, văn hoá, xã hội…để trang bị cho mình những kiến thức xã hội phong phú.

- Không có một dàn bài chi tiết duy nhất đúng cho một đề văn NLXH vì văn nghị luận xã hội có tính chất mềm dẻo và với kiểu bài này học sinh phát huy trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo.

3. Các dạng bài NLXH và dạng đề thường gặp:

a. Dạng bài:

Trong nhà trường, phạm vi của NLXH có 3 dạng chính:

  • Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
  • Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
  • Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong một tác phẩm văn học.

b. Dạng đề:

Căn cứ theo yêu cầu tạo lập văn bản mà có những kiểu đề cụ thể:

  • Dạng đề viết bài tự luận ngắn
  • Dạng đề viết một đoạn văn nghị luận

Căn cứ vào nội dung và cách hỏi :

  • Dạng đề có cách hỏi trực tiếp, vấn đề nghị luận được trình bày một cách rõ ràng.
  • Dạng đề có cách hỏi gián tiếp, vấn đề nghị luận được chứa trong một câu danh ngôn, ý thơ, ý văn…..

4. Định hướng cách làm theo từng dạng bài

4.1 Nghị luận về một tư tưởng đạo lý

a.Kiến thức cơ bản:

* Khái niệm:

Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là kiểu bài nghị luận xã hội mà người viết kết hợp những thao tác lập luận để làm rõ những vấn đề tư tưởng đạo lí trong đời sống.

* Đề tài :

Rất phong phú và đa dạng:

  • Các vấn đề về nhận thức ( Lí tưởng, mục đích sống…)
  • Các vấn đề về tâm hồn, tính cách ( Lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ lượng…; tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hoà nhã, khiêm tốn…; thói ích kỉ, ba hoa, vụ lợi…)
  • Các vấn đề về quan hệ gia đình ( tình mẫu tử, tình anh em…)
  • Các vấn đề về quan hệ xã hội ( tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn bè…)
  • Các vấn đề về cách ứng xử, những hành động của mỗi người trong cuộc sống.

* Yêu cầu:

- Nội dung:

+ Hiểu được vấn đề cần nghị luận là gì.
+Từ vấn đề nghị luận đã xác định, người viết tiếp tục phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí so sánh, bàn bạc, bác bỏ... nghĩa là biết áp dụng nhiều thao tác lập luận.
+ Phải biết rút ra ý nghĩa vấn đề

- Về diễn đạt: Rõ ràng, mạch lạc, đúng chuẩn chính tả, ngữ pháp.

b. Định hướng cách làm bài:

* phần mở bài:

- Mở bài là giới thiệu với người đọc vấn đề mình sẽ viết, sẽ trao đổi, bàn bạc.

- Cấu trúc : 2 phần

+ Những câu dẫn dắt vào đề ( Khái quát )

+ Luận đề ( Dẫn nguyên văn hoặc nội dung bao trùm )

- Cách làm:

+ Mở bài trực tiếp: Là trả lời thẳng vào câu hỏi “ Bài viết bàn về vấn đề gì?”

+ Mở bài gián tiếp: Có thể xuất phát từ một lời thơ, ý văn, tục ngữ, ý kiến… để dẫn dắt người đọc tới vấn đề tư tưởng, đạo lí cần nghị luận.

* Kĩ năng viết phần thân bài

- Thân bài là phát triển, làm rõ những vấn đề đã đặt ra ở mở bài, đây là phần chủ yêú của bài văn

- Cách làm : tiến hành theo các bước sau:

+ Giải thích rõ tư tưởng, đạo lí cần nghị luận ( Giải thích các từ, các khái niệm…)

+ Phân tích , chứng minh các mặt đúng của tư tưởng, đạo lí ( dùng các dẫn chứng của cuộc sống và văn học để chứng minh )

+ Bác bỏ những biểu hiện sai lệch liên quan đến tư tưởng, đạo lí (dùng các dẫn chứng của cuộc sống và văn học để chứng minh )

+ Khẳng định, đánh giá ý nghĩa của tư tưởng đạo lí đã nghị luận

* Kĩ năng viết phần kết bài

- Kết bài là tổng kết, “ gói lại” vấn đề đã đặt ra ở phần mở bài và phát triển ở thân bài. Một kết bài hay thường khơi gợi được suy nghĩ, tạo “ dư ba” trong lòng người đọc.

- Cách làm: Tóm tắt khái quát lại các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đề bài nhằm chốt lại bài viết hoặc dẫn thơ văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận. Liên hệ rút ra vấn đề cho bản thân.

Ví dụ minh hoạ:

ĐỀ:
" Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai ương của số phận ". (Euripides)

Viết một bài tự luận ngắn để nêu suy nghĩ của anh ( chị ) về câu nói trên?

4.2 Nghị luận về một hiện tượng đời sống

a. Kiến thức cơ bản

* Khái niệm

Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn luận về một hiện tượng trong đời sống có ý nghĩa đối với xã hội, được nhiều người quan tâm. Kiểu bài này đề cập đến rất nhiều phương diện của đời sống tự nhiên và xã hội (thiên nhiên, môi trường, cuộc sống con người,…)

* Phạm vi đề tài

Đề tài của dạng nghị luận này rất phong phú, thường có tính đa chiều, đa diện (trong khi đối tượng bàn luận của kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lý lại là những tư tưởng, đạo lý đã được đúc kết, coi như là chân lý đã được nhiều người thừa nhận) và là những hiện tượng đời sống mang tính thời sự.

Một số đề tài cụ thể như:

-Hiện tượng môi trường bị ô nhiễm

-Hiện tượng tiêu cực trong học hành, thi cử

-Vấn đề tai nạn giao thông

-Sự thờ ơ, vô cảm của con người trong xã hội hiện nay

-Nạn bạo hành trong gia đình

-Nạn bạo lực học đường

-Hiện tượng học sinh nghiện chơi điện tử….v.v

* Yêu cầu

-Về nội dung:

+Người viết cần thể hiện được sự hiểu biết về vấn đề cần nghị luận: nêu rõ hiện tượng và những biểu hiện cụ thể của nó.

+Phân tích các mặt đúng – sai, lợi – hại để có cái nhìn toàn diện.

+Chỉ ra nguyên nhân và các tác động tiêu cực, tích cực của hiện tượng

+Bày tỏ thái độ, đưa ra ý kiến, giải pháp đối với vấn đề nghị luận.

-Về thao tác lập luận:

+Cần phối hợp nhiều thao tác lập luận trong bài viết: giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận

- Về phạm vi tư liệu

+Huy động kiến thức về đời sống xã hội, đặc biệt là những thông tin cập nhật có liên quan đến vấn đề và những trải nghiệm của bản thân. Những kiến thức nêu ra cần có sự hài hòa giữa tri thức phổ quát và nhận thức chủ quan của bản thân theo hướng cụ thể, sát thực tiễn.

-Về trình bày, diễn đạt:

+Hình thức trình bày là một bài văn hay một đoạn văn tùy theo yêu cầu của đề bài nhưng cần có cấu trúc ba phần: mở, thân , kết.

+Cách thức tổ chức lập luận chặt chẽ, ý phải rõ ràng, mạch lạc, thể hiện được tư duy logic của người viết.

+Diễn đạt ngắn gọn, trong sáng, mỗi ý trình bày thành một đoạn văn.

b. Cách làm bài

*Mở bài:

Nêu hiện tượng cần nghị luận

*Thân bài

-Giải thích rõ khái niệm về hiện tượng(nếu cần)

-Phân tích các mặt của hiện tượng đời sống được đề cập (dùng dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để làm rõ )

+Biểu hiện, thực trạng của hiện tượng xã hội cần nghị luận

+Nguyên nhân làm xuất hiện hiện tượng đó(cả nguyên nhân khách quan và chủ quan)

+Tác động của hiện tượng đối với xã hội: Tích cực-> biểu dương, ngợi ca; tiêu cực-> phê phán, lên án

+Biện pháp phát huy (nếu là tích cực) hoặc ngăn chặn (nếu là tiêu cực)

-Đánh giá , đưa ra ý kiến về hiện tượng xã hội đó

*Kết bài

-Tóm lược

-Liên hệ, rút ra bài học cho bản thân.

Ví dụ minh họa

Đề bài: Suy nghĩ về tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay.

4.3 Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong một tác phẩm văn học

a. Kiến thức cơ bản:

* Khái niệm:

Nghị luận về một vần đề xã hội đặt ra trong các tác phẩm văn học là kiểu bài nghị luận mà vấn đề bạc được rút ra từ một tác phẩm văn học hoặc một câu chuyện nhỏ.

* Đề tài:

Một vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu sắc nào đó đặt ra trong tác phẩm văn học. Vấn đề xã hội có ý nghĩa có thể lấy từ hai nguồn: tác phẩm văn học đã học trong chương trình hoặc một câu chuyện nhỏ, một văn bản văn học ngắn gọn mà HS chưa được học. Dù là vấn đề gì thì đề tài cũng thuộc phạm vi các tư tưởng đạo lí hoặc các hiện tượng đời sống.

* Yêu cầu :

- Nội dung:

+ Hiểu được vấn đề cần nghị luận là gì.
+Từ vấn đề nghị luận đã xác định, người viết tiếp tục phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí so sánh, bàn bạc, bác bỏ... nghĩa là biết áp dụng nhiều thao tác lập luận.
+ Phải biết rút ra ý nghĩa vấn đề

- Về diễn đạt: Rõ ràng, mạch lạc, đúng chuẩn ngữ pháp, chuẩn chính tả.

b. Định hướng cách làm bài:

* Về cấu trúc triển khai tổng quát:

- Phần một: Phân tích văn bản (hoặc nêu vắn tắt nội dung câu chuyện) để rút ra ý nghĩa của vấn đề (hoặc câu chuyện).

- Phần hai (trọng tâm): Nghị luận (phát biểu) về ý nghĩa của vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học (câu chuyện).

* Kĩ năng :

- Viết phần mở bài và kết bài ( Như phần nghị luận về một tư tưởng đạo lí và hiện tượng đời sống ).

- Viết phần thân bài:

+ Giải thích khái niệm ( nếu có )

+ Phân tích làm rõ vấn đề được nghị luận trong văn học ( qua văn bản )

• Nếu vấn đề là một tư tưởng đạo lí thì áp dụng cách viết như kiểu bài thứ nhất ( đã trình bày ở trên )

• Nếu vấn đề là một hiện tượng đời sống thì áp dụng cách viết như kiểu bài thứ hai ( đã trình bày ở trên ).

- Đánh giá ý nghĩa của tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng đời sống đã nghị luận.

CẤU TRÚC ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ (TTĐL)

1 / Mở đoạn:

  • Giới thiệu ý có liên quan để dẫn vào tư tưởng, đạo lí
  • Nêu vấn đề: Đề bài có câu trích thì ghi lại nguyên văn câu trích. Đề bài không có câu trích thì nêu ý của đề và nhận định phù hợp với đề bài.

2/ Thân đoạn. ( 4 ý cơ bản )

Ý TƯ TƯỞNG ĐÚNG TƯ TƯỞNG KHÔNG ĐÚNG

1

Giải thích đề

Giải thích đề

2

Phân tích những mặt đúng (lí lẽ, dẫn chứng), chỉ ra ý nghĩa, tác dụng của TTĐL. Phần này thực chất là trả lời câu hỏi: Tại sao? (Vì sao?) Vấn đề được biểu hiện như thế nào? Có thể lấy những dẫn chứng nào làm sáng tỏ?

Phân tích các mặt sai, chỉ ra tác hại của TTĐL.

3

Phân tích mặt tiêu cực: Bác bỏ những tư tưởng sai lệch, chỉ ra tác hại.

Nêu quan niệm đúng có liên quan đến tư tưởng, chỉ rõ ý nghĩa, tác dụng.

4

Rút ra bài học nhận thức và hành động

- Từ sự đánh giá trên, rút ra bài học kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như trong học tập, trong nhận thứccũng như trong tư tưởng, tình cảm, …( Thực chất trả lời câu hỏi: từ vấn đề bàn luận, hiểu ra điều gì? Nhận ra vấn đề gì có ý nghĩa đối với tâm hồn, lối sống bản thân?...)

- Bài học hành động - Đề xuất phương châm đúng đắn, phương hướng hành động cụ thể

( Thực chất trả lời câu hỏi: Phải làm gì? …)

Rút ra bài học nhận thức và hành động

3/ Kết đoạn: Nhận định chung, cảm nghĩ chung về tư tưởng, đạo lí. Khẳng định chung về tư tưởng, đạo lí đã bàn luận ở thân bài. Ý nghiã vấn đề đối với con người, cuộc sống.

CẤU TRÚC ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG

Để triển khai bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống, cần theo các bước sau:

- Giải thích, nêu thực trạng của hiện tượng.

- Phân tích: nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng.

- Biện pháp, khắc phục hoặc giải pháp cho sự phát triển của hiện tượng.

a. Mở đoạn:
- Dẫn dắt vào đề (…) để giới thiệu chung về những vấn đề có tính bức xúc mà xã hội ngày nay cần quan tâm.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận đặt ra ở đề bài: hiện tượng đời sống mà đề bài đề cập…
-   ( Chuyển ý)
b. Thân đoạn:
* Bước 1: Trình bày thực trạng – Mô tả  hiện tượng đời sống được nêu ở đề bài (…). Có thể nêu thêm hiểu biết của bản thân về hiện tượng đời sống đó (…).
Lưu ý: Khi miêu tả thực trạng, cần đưa ra những thông tin cụ thể, tránh lối nói chung chung, mơ hồ mới tạo được sức thuyết phục.
- Tình hình, thực trạng trên thế giới (…)
- Tình hình, thực trạng trong nước (…)
- Tình hình, thực trạng ở địa phương (…)
* Bước 2:  Phân tích những nguyên nhân – tác hại của hiện tượng đời sống đã nêu ở trên.
- Ảnh hưởng, tác động - Hậu quả, tác hại của hiện tượng đời sống đó:
+ Ảnh hưởng, tác động - Hậu quả, tác hại đối với cộng đồng, xã hội (…)
+ Hậu quả, tác hại đối với cá nhân mỗi người (…)
- Nguyên nhân:
+ Nguyên nhân khách quan (…)
+ Nguyên nhân chủ quan (…)
   * Bước 3:  Bình luận về hiện tượng ( tốt/ xấu, đúng /sai...)
    - Khẳng định: ý nghĩa, bài học từ hiện tượng đời sống đã nghị luận.
    Phê phán, bác bỏ một số quan niệm và nhận thức sai lầm có liên quan đến hiện tượng bàn luận (…).
   - Hiện tượng từ góc nhìn của thời hiện đại, từ  hiện tượng nghĩ về những vấn đề có ý nghĩa thời đại
       * Bước 4:  Đề xuất những giải pháp:
Lưu ý: Cần dựa vào nguyên nhân để tìm ra những giải pháp khắc phục.
-         Những biện pháp tác động vào hiện tượng đời sống để ngăn chặn (nếu gây ra hậu quả xấu) hoặc phát triển (nếu tác động tốt): 
     + Đối với bản thân…
     + Đối với địa phương,  cơ quan chức năng:…
     + Đối với xã hội, đất nước: …
     + Đối với toàn cầu 
c. Kết đoạn:
- Khẳng định chung về hiện tượng đời sống đã bàn (…)
- Lời nhắn gửi đến tất cả mọi người.

CẤU TRÚC ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI

ĐẶT RA TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC

a. Mở đoạn:
- Dẫn dắt vào đề (…)
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề xã hội mà tác phẩm nêu ở đề bài đặt ra (…)
- Trích dẫn câu thơ, câu văn hoặc đoạn văn, đoạn thơ nếu đề bài có nêu ra (…)
b. Thân đoạn:
*  Phần Giải thích và rút ra vấn đề xã hội đã được đặt ra từ tác phẩm (…)
Lưu ý: Phần này chỉ giải thích, phân tích một cách khái quát và cuối cùng phải chốt lại thành một luận đề ngắn gọn.
* Phần trọng tâm: Thực hiện trình tự các thao tác nghị luận tương tự như ở bài văn nghị luận về tư tưởng đạo lí hoặc nghị luận về hiện tượng đời sống như đã nêu ở trên (…)
Lưu ý: Khi từ “phần giải thích” chuyển sang “phần trọng tâm” cần phải có những câu văn “chuyển ý” thật ấn tượng và phù hợp để bài làm được logic, mạch lạc, chặt chẽ.
c. Kết đoạn
- Khẳng định chung về ý nghĩa xã hội mà tác phẩm văn học đã nêu ra (…)
- Lời nhắn gửi đến tất cả mọi người (…)

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

ĐỀ 1 : Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sức mạnh đoàn kết trong cuộc sống ngày nay

Gợi ý :
Đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay. Đoàn kết là sự hợp tác chung tay góp sức để kết thành một khối thống nhất về cả tư tưởng lẫn hành động nhằm thực hiện một mục đích chung, đem lại lợi ích vì sự phát triển của tập thể. Trong bối cảnh ngày nay, tinh thần ấy một lần nữa được khẳng định mạnh mẽ. Trên mặt trận chính trị, nhân dân cả nước đồng lòng chống lại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù đich, không tiếp tay cho mọi hành động đi ngược lại với chủ trương của Đảng và nhà nước, quyết chí bảo vệ biên cương, biển đảo. Trên mặt trận kinh tế, hợp tác chung tay xây dựng nền kinh tế vững mạnh, sản xuất ổn định, tăng cường xuất khẩu. Hành động chung tay góp sức ủng hộ, giúp đỡ đồng bào miền trung vượt qua bão lũ, giúp đỡ cho đời sống ngư dân sau thảm họa ô nhiễm môi trường biển ở Hà Tĩnh, cùng người nông dân giải quyết tiêu thụ nông sản, chuyển đổi quy trình sản xuất, nâng cao hiệu quả lao động…từng bước đưa nước ta tiến lên sánh ngang với các cường quốc năm châu. Tinh thần đoàn kết là một trong những giá trị tinh thần quý báu của dân tộc ta. Phải biết đoàn kết để cùng bảo về nền hòa bình dân tộc và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

ĐỀ 2

Anh/ chị hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ nêu suy nghĩ của mình về sự biến đổi khí hậu và những thiên tai gần đây?

Bài làm

Nhân loại đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong do tác động của nạn ô nhiễm môi trường dẫn đến “sự biến đổi khí hậu và những thiên tai gần đây như động đất, sóng thần, núi lửa … đang gây nên những hiểm họa khôn lường cho nhân loại” Từ vài năm trở lại đây nhân loại phải đứng trước những đe dọa của thiên nhiên, thiên tai và dịch bệnh gây nguy hại cho đời sống con người. Còn nhớ năm 2005, sóng thần đã cuốn trôi hàng chục ngàn người ở Thái Lan và Indonesia. Năm 2008, động đất làm tan hoang Tứ Xuyên (Trung Quốc). Ngày càng nhiều làng “Ung thư” xuất hiện ở Việt Nam và thế giới… đây là những con số đáng báo động, cho thấy sự nổi giận của thiên nhiên trước những sai lầm của con người. Nguyên nhân dẫn đến những hậu quả trên là do: Sự tác động của con người tới thiên nhiên như: chặt phá rừng mất cân bằng sinh thái, sử dụng hóa chất như thuốc sâu, thuốc cỏ thiếu khoa học. Rồi khói thải công nghiệp, khói thải đô thị làm thủng tầng Ô Zôn gây nên hiệu ứng nhà kính và tình trạng nóng dần lên của trái đất. Con người không ngừng xây dựng, đục khoét trái đất, xây hầm, khai thác mỏ làm biến dạng lớp vỏ trái đất. Con người với những hận thù, tham vọng bá chủ thế giới, không ngừng chạy đua vũ trang, sản xuất vũ khí hóa học, bom đạn, gây chiến tranh liên miên… Tất cả sẽ dẫn đến sự giận dữ của thiên nhiên và báo hiệu sự diệt vong của trái đất. Theo lịch của người Maya năm 2012 là năm tận thế, nhà tiên tri Vanga dự đoán: sau năm 2010 sẽ là động đất, núi lửa và sóng thần… nay đang trở thành sự thật. Hãy chung tay bảo vệ môi trường bằng những hành động thiết thực: Không được đốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi, gây huỷ hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh thái. Không thải dầu, mỡ, hoá chất độc hại, chất phóng xạ quá giới hạn cho phép, các chất thải, xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại và gây dịch bệnh vào nguồn nước; không chôn vùi, thải vào đất các chất độc hại quá giới hạn cho phép; các quốc gia cam kết không sử dụng và sản xuất vũ khí hóa học, không gây chiến tranh; nếu dùng điện hạt nhân phải có quy trình chặt chẽ để bảo quản tránh sự cố khủng khiếp như vụ nổ lò phản ứng hạt nhân ở Nhật (2011), vụ nổ lò hạt nhân Checmobưn ở Nga (1986) gây bao đau thương cho con người.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về quan niệm “Có ba cách để tự làm giàu mình: mỉm cười, cho đi và tha thứ” (Theo Hạt giống tâm hồn – NXB Tổng hợp TP HCM,2008)

Bài làm

Đã có khi nào bạn thử hỏi liệu cuộc sống của mình giàu có hay không ? Và giàu có mà tôi muốn nói đến ở đây là giàu có về tinh thần. Có ý kiến cho rằng “Có ba cách để tự làm giàu mình: mỉm cười, cho đi và tha thứ” nhắn nhủ mỗi chúng ta về cách nuôi dưỡng tâm hồn. “Tự làm giàu mình” chính là tự nuôi dưỡng và bồi đắp nhân cách, tâm hồn bên trong. Và có ba cách để giúp ta làm việc đó: “mỉm cười” – biểu hiện của niềm vui, sự lạc quan, yêu đời; “cho đi” là biết quan tâm, chia sẻ với mọi người và “tha thứ” là khi ta bao dung, độ lượng với lỗi lầm của người khác. Tâm hồn con người sẽ trở nên trong sáng, giàu đẹp hơn nếu biết lạc quan, sống sẻ chia và rộng mở tấm lòng với mọi người. Ta vẫn quen với câu nói “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”.Lạc quan, yêu đời không chỉ giúp con người vượt lên khó khăn, thử thách mà còn tạo niềm tin về bản thân và giúp ta hướng đến khát vọng tốt đẹp. Và khi ta biết sẻ chia, quan tâm đến những người xung quanh là ta đã chiến thắng sự vô cảm, ích kỉ để sống giàu trách nhiệm và yêu thương hơn. Mang lại niềm vui cho người khác ta sẽ thấy thanh thản trong tâm hồn, được sự tin yêu, tôn trọng của mọi người và chắc chắn khi ta gặp khó khăn sẽ nhận được sự giúp đỡ của người khác. Và nếu muốn trút bỏ đau khổ, thù hận để sống thanh thản và mang lại niềm vui cho mọi người thì hãy bao dung, độ lượng hơn. Ngoài sự lạc quan, sẻ chia, độ lượng, con người còn có thể bồi đắp , nuôi dưỡng tâm hồn mình bang những ứng xử tốt đẹp. Hãy xem cách dân tộc Việt Nam tha thứ cho kẻ thù xâm lược để thấy đưọc truyền thông nhân đạo, nhân ái của ông cha ta đáng khâm phục đến nhường nào. Trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi viết:“Mã Kì, Phương Chính cấp cho 500 chiếc thuyền/Vương Thông, Mã Anh cấp cho hàng nghìn cỗ ngựa.”Trong “Tuyên ngôn độc  lập” Bác đã khẳng định: “Tuy vậy, dân tộc Việt Nam trước sau vẫn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo với kẻ thù thất thế”…Hẳn là khi viết lại những hành động khoan dung, nhân đạo ấy của dân tộc ta, các tác giả phải tự hào biết bao! Sự giàu có về tâm hồn có ý nghĩa quyết định sự hoàn thiện nhân cách của mỗi người. Mỗi chúng ta cần có ý thức gìn giữ và bồi đắp để đời sống tinh thần, tình cảm của bản thân không bị xói mòn và chai sạn bởi mặt trái của cuộc sống hiện đại. Để làm được điều đó, hãy bắt đầu từ những thái độ sống tích cực, có ý nghĩa với bản thân, gia đình và xã hội. 

4. Củng cố

- Các yêu cầu, các bước viết đoạn văn nghị luận xã hội.

- Các dạng đề của kiểu bài nghị luận xã hội và cách làm bài.

5. Dặn dò

- Ôn bài cũ.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 14/09/2017

TIẾT 9-10. ÔN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng

- Biết cách làm các dạng đề nghị luận xã hội :

+ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.

+Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

+ Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Rèn luyện tư duy khoa học, nâng cao kiến thức về xã hội, có ý thức bênh vực cái đúng, phê phán cái sai. Tích cực, chăm chỉ viết bài.

4. Định hướng phát triển năng lực HS

- Năng lực chung: Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực hợp tác.

- Năng lực riêng: cảm thụ thẩm mĩ, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

B. PHƯƠNG TIỆN

- GV: Giáo án, tài liệu tham khảo.

- HS: vở ghi.

C. PHƯƠNG PHÁP

GV chủ yếu dùng phương pháp đàm thoại, giúp HS củng cố lí thuyết, rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. ÔN TẬP LÍ THUYẾT

1. Về hình thức:

+ Thứ nhất  :Đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, học sinh cần trình bày trong 1 đoạn văn ( không được ngắt xuống dòng ), dung lượng an toàn  khoảng 2/3 tờ giấy thi ( khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), có thể nhiều hơn 1 vài dòng cũng không bị trừ điểm. Đoạn văn cần diễn dạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.

+ Thứ hai: Đoạn văn phải đảm bảo bố cục ba phần: Đặt vấn đề – Giải quyết vấn đề – Kết thúc vấn đề.

+ Thứ ba: Đoạn văn sử dụng các thao tác lập luận: Giải thích – Phân tích – Chứng minh – Bình luận – Bác bỏ – Bình luận mở rộng. Diễn đạt phải trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

2. Về nội dung : Dù dài hay ngắn thì đoạn văn cũng phải đầy đủ các ý chính. Cụ thể :

Câu mở đoạn : có tác dụng dẫn dắt vấn đề. Các em nên viết đoạn văn theo kiểu diễn dịch, câu chốt nằm ở đầu đoạn, các câu sau triển khai cho câu chủ đề. Đoạn văn nên có 1 câu kết, nêu ý nghĩa, rút ra bài học, hoặc cảm xúc , quan điểm cá nhân về vấn đề đang bàn luận.

Đoạn văn nghị luận về tư tưởng đạo lí cần có các ý : Giải thích (Là gì? Như thế nào? Biểu hiện cụ thể?), Phân tích, chứng minh ( tại sao nói như thế?),  Bình luận,  Mở rộng vấn đề, Bác bỏ ( phê phán ) những biểu hiện sai lệch, Nêu ý nghĩa ,rút ra bài học nhận thức và hành động.

Đoạn văn nghị luận về hiện tượng đời sống cần có các ý : Nêu hiện tượng ( đó là hiện tượng gì ? biểu hiện ? mức độ ?). Phân tích tác dụng/ tác hại của hiện tượng trên , Bàn luận về nguyên nhân , giải pháp ,…Nêu bài học sâu sắc với bản thân.Học sinh cần có cách viết linh hoạt theo yêu cầu của đề bài, tránh làm bài máy móc hoặc chung chung.

3. Tìm ý cho đoạn văn:

– Xác định sẽ viết những nội dung cụ thể gì (ý chính)?

– Ghi ra giấy nháp những ý chính của đoạn văn (theo hệ thống các thao tác lập luận).

– Việc tìm ý cho đoạn văn sẽ  giúp ta hình dung được những ý chính cần viết, tránh tình trạng viết lan man dài dòng, không trọng tâm.

4. Các bước viết đoạn văn hoàn chỉnh :

–  Sau khi tìm được những ý chính cho đoạn văn, chúng ta tiến hành viết câu mở đầu.

+ Câu mở đầu có nhiệm vụ dẫn dắt vấn đề.

+ Đối với đoạn văn trong đề đọc hiểu, nên dẫn dắt từ nội dung/ câu nói của văn bản được trích dẫn.

– Đoạn văn có thể trình bày theo nhiều cách  khác nhau, nhưng cách đơn giản nhất là trình bày theo kiểu diễn dịch:

+ Tức là câu chủ đề nằm ở đầu đoạn (thường là lời bày tỏ ý kiến đánh giá, nhận xét câu nói/ vấn đề).

+ Các câu sau triển khai ý, làm rõ ý của câu mở đầu (ý kiến đánh giá, nhận xét câu nói/ vấn đề).

– Viết các câu nối tiếp câu mở đầu :

+ Dựa vào các ý chính vừa ghi trên giấy nháp, chúng ta tiến hành viết đoạn văn.

+ Các câu nối tiếp lần lượt sử dụng các thao tác lập luận: Giải thích – Phân tích – Chứng minh – Bình luận – Bác bỏ – Bình luận mở rộng.

+ Lưu ý cách diễn đạt và lỗi chính tả.

– Viết câu kết của đoạn văn :

+ Câu kết của đoạn có nhiệm vụ kết thúc vấn đề.

+ Dù đoạn văn dài hay ngắn thì câu kết cũng giữ vai trò quan trọng, để lại ấn tượng cho người đọc.

+  Câu kết có thể nêu cảm xúc cá nhân, mở rộng vấn đề (nêu bài học chung), hoặc tóm lược vấn đề vừa trình bày

– Lưu ý:

+ Cần trình bày quan điểm cá nhân nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

+ Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo (viết câu, sử dụng từ ngữ, hình ảnh và các yếu tố biểu cảm,…) .

Tóm lại:

– Để tìm được ý cho đoạn văn, cần xem xét vấn đề ở nhiều góc độ. Cách đơn giản nhất là thử đặt ra và trả lời các câu hỏi:

+ Nó (vấn đề) là gì? Nó (câu nói) như thế nào?

+ Tại sao lại như thế?

+ Điều đó đúng hay sai, hay vừa đúng vừa sai?

+ Nó được thể hiện như thế nào (trong văn học, trong cuộc sống)?

+ Điều đó có ý nghĩa gì đối với cuộc sống, với con người, bản thân…?

+ Cần phải làm gì để thực thi/hạn chế vấn đề/câu nói?

Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi trên, có thể hình dung một đoạn văn nghị luận cần được triển khai theo ba bước:

+ Thứ nhất: Giải thích.

. Trước tiên, cần giải thích nghĩa cụ thể của các một số từ ngữ, khái niệm còn ẩn ý hoặc chưa rõ nghĩa.

. Sau đó giải thích ý nghĩa cả câu nói.

+ Thứ hai: Phân tích và chứng minh.

. Lí giải vấn đề, làm sáng tỏ vấn đề.

. Dẫn ra các ví dụ về những con người và sự việc cụ thể trong đời sống, xã hội, lịch sử…

+ Thứ ba: Bình luận, đánh giá, mở rộng.

. Khẳng định lại chân lí (bình luận, đánh giá).

. Mở rộng và nâng cao vấn đề: Phê phán những hiện tượng đi ngược lại chân lí; Liên hệ bản thân để rút ra bài học.

Cấu trúc đoạn 200 chữ :

– Câu mở đoạn: Giới thiệu vấn đề (khoảng 2 – 4 dòng).

– Các câu phát triển đoạn: (12 – 16 dòng).

Vận dụng các thao tác:

+ Giải thích (Câu nói nêu lên vấn đề gì?)

+ Lí giải (Vì sao lại nói như thế?)

+ Dẫn chứng (Họ đã làm thế nào?)

+ Bình luận (Vấn đề đúng hay sai hay vừa đúng vừa sai?)

+ Bác bỏ (Hiện tượng trái ngược cần phê phán là gì?)

– Câu kết đoạn: Rút ra bài học. (Bản thân và mọi người cần phải làm gì?) (2 – 4 dòng)

 – Trong đoạn văn nghị luận xã hội, bên cạnh việc cắt nghĩa, lí giải, đánh giá vấn đề là điều cần thiết thì khâu chứng minh cũng rất quan trọng. Để đoạn văn nghị luận xã hội hấp dẫn, sinh động, cần có hệ thống dẫn chứng thích hợp. Yêu cầu dẫn chứng:

* Lưu ý:

+ Đó phải là những dẫn chứng lấy ra từ đời sống thực tế, càng xác thực, càng cụ thể càng có sức thuyết phục cao.

+ Hạn chế lấy dẫn chứng từ tác phẩm văn học.

+ Khi đưa dẫn chứng vào, không kể lan man mà nên thuật lại một cách ngắn gọn, nhấn mạnh vào khía cạnh ứng dụng của dẫn chứng đối với vấn đề đang chứng minh. Đưa dẫn chứng phải kèm theo thái độ, quan điểm đánh giá rõ ràng.

– Khi liên hệ thực tế để rút ra bài học: cần bày tỏ thái độ chân thành, nghiêm túc, tránh cách nói sáo mòn, gượng ép, giả tạo, “công thức”.

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

ĐỀ 1.

Có ý kiến cho rằng “Con người từng ngày thay đổi công nghệ nhưng chính công nghệ cũng đang thay đổi cuộc sống con người”. Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên bằng đoạn văn nghị luận ( khoảng 200 chữ)

Bài làm

Đã bao giờ bạn tự hỏi nếu một ngày không có điện thoại, laptop hay những đồ công nghệ khác, cuộc sống sẽ ra sao? Chúng ta vẫn thường coi công nghệ như một điều thiết yếu của cuộc sống và nghĩ rằng những sự thay đổi đó là do con người. Nhưng có ý kiến cho rằng “Con người từng ngày thay đổi công nghệ nhưng chính công nghệ cũng đang thay đổi cuộc sống con người”. Phải chăng công nghệ đang ngày ngày chi phối, định hướng hành vi, thói quen không chỉ của cá nhân mà cả cộng đồng hay nhiều thế hệ. Thuật ngữ công nghệ có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp, hàm nghĩa về các công cụ, kĩ năng và mưu mẹo của con người trong các hoạt động sống. Ngày nay, công nghệ được xem là hệ thống các phương pháp, công cụ và năng lực giải quyết vấn đề hay quy trình tạo ra sản phẩm ( vật thể và phi vật thể ). Con người đang ngày càng phát triển công nghệ những cũng đồng thời lệ thuộc và nó, bị nó chi phối. Việc phát triển, biến đổi công nghệ là quy luật tất yếu, khi con người chủ động thay thế phần quan trọng ( cơ bản, cốt lõi) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng công nghệ khác tiên tiến hơn. Công nghệ hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống và đem đến cho chúng ta những lợi ích không thể phủ nhận. Cuộc sống chúng ta ngày một tốt hơn, tiết kiệm sức lao động,…Tuy nhiên, cũng có những ảnh hưởng tiêu cực khi sự lệ thuộc vào công nghệ ngày càng cao. Điều đó dẫn đến việc lười suy nghĩ, lười vận động, những mối quan hệ cũng trở nen lạnh lùng, khô cứng khi đa số lựa chọn việc duy trì việc gặp gỡ, trò chuyện, quan tâm chỉ qua những lời nhắn bằng mạng xã hội. Thế giới công nghệ còn khiến con người dễ rơi vào trạng thái ảo tưởng. Trong thời đại hiện nay, vẫn cần thiết phát triển công nghệ. Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ cần tiết chế, phù hợp. Các cơ quan chức năng cần tăng cường sự quản lý, sử dụng công nghệ để phục vụ cho mục đích lành mạnh, cộng đồng. Và mỗi người cũng cần cân bằng giữa việc sử dụng công nghệ và thực hiện trách nhiệm với cộng đồng, gia đình. Hãy để công nghệ trở thành công cụ một cách phù hợp và hiệu quả với cuộc sống của chúng ta.

ĐỀ 2.

Trong văn bản Cổng trường mở ra, Lý Lan viết: Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con.

Từ sự hiểu biết và thực tế của bản thân, hãy viết một đoạn văn nghị luận khoảng 200 chữ về tính tự lập và sự chủ động hòa nhập với thế giới xung quanh.

Bài làm

Thế giới ngày càng rộng mở và con người cũng cần tự lập, chủ động hơn để hòa mình với sự chuyển biến của cuộc sống. Và trong tâm sự của người mẹ nhân ngày khai trường của con, Lý Lan đã viết trong “Cổng trường mở ra”: “Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con.”. Đó không chỉ là những lời yêu thương từ tấm lòng người mẹ mà còn là lời nhắn gửi rất ý nghĩa: sự dìu dắt, chỉ bảo, nâng đỡ của cha mẹ là rất cần thiết nhưng sự tự lập, chủ động của mỗi chúng ta là yếu tố quyết định sự trưởng thành , năng lực và sự thành công của mỗi người. “Cầm tay con mà dắt” chính là sự dẫn dắt, chăm sóc của cha mẹ trên những bước đường đời đầu tiên của con nhưng rồi đến ngưỡng cửa nào đó, sự dìu dắt đó sẽ thay thế bằng những bước chân con tự đi là sự “buông tay” để con được tự do, tự chủ. Lúc ấy sẽ là lúc con cần đến sự can đảm, bản lĩnh, khả năng để biến vạn vật xung quanh thành “thế giới của con” – con tự mình khám phá và hòa nhập. Hay nói cách khác, đó chính là khả năng tự lập và chủ động của mỗi chúng ta. Tự lập là khả năng tự làm việc, học tập, giải quyết những vấn đề cá nhân của mình mà không ỷ lại, nhờ vả, dựa vào sự giúp đỡ của người khác. Và khi bản thân mình tích cực thực hiện, không chờ đợi, không phụ thuộc hoàn cảnh thì đó chính là chủ động, mức độ cao hơn của tự lập. Không phủ nhận rằng, sự chăm sóc, yêu thương, đùm bọc của cha mẹ, người thân đối với chúng ta là những điều quý giá, đáng trân trọng, là nền tảng vững chắc cho sự thành công. Tuy nhiên, yếu tố đóng vai trò là sức bật chính là sự tự lập. Nó giúp chúng ta có ý thức rèn luyện để hoàn thiện bản thân. Sự chủ động giúp chúng ta vươn lên, thích nghi với hoàn cảnh, vượt qua mọi thử thách, không gục ngã lùi bước trước thử thách. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại, tự lập và chủ động là chìa khóa giúp mỗi cá nhân phát triển, không lệ thuộc, phát huy tính sáng tạo. Có như vậy mới đến được ánh sáng của thành công. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ “thần đồng” Đỗ Nhật Nam, dù tuổi còn nhỏ nhưng em đã tạo nên tiếng vang lớn trong và ngoài nước bằng chính khả năng bản thân. Khi còn nhỏ, cha mẹ em đã định hướng, dẫn dắt em những bước đầu như dạy em nên học tiếng anh như thế nào hay rèn luyện ra sao. Để rồi sau đó bằng sự tự chủ, em đã vươn lên, nỗ lực bằng chính đôi chân của mình. Tự lập biểu hiện ở các giai đoạn khác nhau trong cuộc đời, tuy nhiên là những người trẻ điều này càng cần thiết hơn. Muốn hình thành sự tự lập, chủ động, cần xác định rõ lối sống, quan niệm sống dựa vào năng lực bản thân, phải khẳng định sự tự tin, tích lũy rèn luyện các kĩ năng sống, suy nghĩ độc lập…Đặc biệt mỗi chúng ta phải biết lập kế hoạch cho công việc, học tập, bởi có mục tiêu sẽ tạo cơ hội để chủ động phấn đấu. Tự lập không có nghĩa là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, xa rời mọi người mà ngược lại cần xây dựng tập thể. Hãy tạo cho mình tính tự chủ, độc lập từ suy nghĩ đến hành động, từ học tập đến đời sống, từ phẩm chất đến bản lĩnh, từ cá nhân đến cộng đồng dân tộc như nhà văn Nga Pautopxki từng viết “Dù người ta có nói với bạn những gì đi nữa thì bạn cứ tự tin rằng cuộc đời kì diệu và tuyệt đẹp”.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau bằng một đoạn văn nghị luận ( khoảng 200 chữ ): “Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất vài năm, nhưng để trở thành người có văn hóa có thể phải mất hàng chục năm, có khi cả cuộc đời”

(Vũ Khiêu – Bài phát biểu nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội)

Bài làm

Có thể đã đôi lần bạn nghe thấy câu nói “Vô văn hóa” hay có thể chính bạn đã nói, nhưng liệu chúng ta có thực sự hiểu rõ về hai chữ “văn hóa” hay không? Trong bài phát biểu kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, học giả Vũ Khiếu đã nói “Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất vài năm, nhưng để trở thành người có văn hóa có thể phải mất hàng chục năm, có khi cả cuộc đời” – một lời nhắn gửi nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc. Văn hóa là một khái niệm rộng bao gồm mọi lĩnh vực của đời sống, từ khoa học cho đến nghệ thuật, từ đời sống tâm hồn, tâm linh đến thói quen sinh hoạt, thị hiếu thẩm mĩ, giao tiếp ứng xử,..của con người. Còn trong câu nói của Vũ Khiêu là bàn đến văn hóa của một người. Bằng những mệnh đề tương phản: giàu sang – có văn hóa, ba năm – chục năm, cả cuộc đời, nhà văn Vũ Khiêu muốn khẳng định sự dày công trong việc dạy dỗ, giáo dục, rèn luyện để một con người trở nên có văn hóa. Đó là một ý kiến hoàn toàn đúng và xác đáng. Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất vài ba năm thậm chí ngắn hơn nữa. Việc tạo lập một sự nghiệp, cuộc sống giàu có về vật chất có thể chỉ mất thời gian ngắn bằng sự cần cù và sáng tạo trong lao động. Nhưng để hình thành nền tảng văn hóa tri thức, con người cần rèn luyện, tích lũy trong khoảng thời gian hàng chục năm khi ngồi trên ghế nhà trường và trong suốt cả cuộc đời như Lê nin đã nói : Học, học nữa, học mãi. Và với giá trị văn hóa tinh thần cũng vậy. Đó là vẻ đẹp tâm hồn với các giá trị đạo đức như: tình yêu thương, nhân ái, lòng vị tha, khoan dung, sự sẻ chia, ý thức dân tộc, cộng đồng, thái độ trân trọng lịch sử, quá khứ, văn hóa giao tiếp ứng xử giữa người và người trong cuộc sống,…Văn hóa tri thức và đạo đức nhân cách của con người có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Những người có trình độ cao thường là những nhân cách đáng trọng. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn đúng với mọi trường hợp bởi trên thực tế, nhiều người có trình độ văn hóa cao vẫn có thể có những suy nghĩ ấu trĩ, vẫn có thể mắc những sai lầm trong giao tiếp văn hóa ứng xử. Ngược lại, có những người dù không được học cao nhưng nhân cách vẫn rạng ngời, đáng kính trọng. Vì vậy, song song với việc bồi đắp tri thức văn hóa, chúng ta còn phải học làm người, tăng cường rèn luyện kĩ năng sống. Việc rèn luyện để trở thành người có văn hóa là quan trọng, cần thiết. Để đào luyện một con người có văn hóa cần có sự chung tay của cả gia đình, nhà trường, xã hội. Nhưng yếu tố quan trọng vẫn là ý thức chủ động của mọi người. Khi mỗi chúng ta tự mình rèn luyện, học hỏi thì “văn hóa” sẽ hiện hiện ở mọi nơi, cuộc sống sẽ ngày càng văn minh, hiện đại hơn.

4. Củng cố

- Các yêu cầu, các bước viết đoạn văn nghị luận xã hội.

- Các dạng đề của kiểu bài nghị luận xã hội và cách làm bài.

5. Dặn dò

- Ôn bài cũ.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 15/09/2017

TIẾT 11-12. ÔN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng

- Biết cách làm các dạng đề nghị luận xã hội :

+ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.

+Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

+ Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Rèn luyện tư duy khoa học, nâng cao kiến thức về xã hội, có ý thức bênh vực cái đúng, phê phán cái sai. Tích cực, chăm chỉ viết bài.

4. Định hướng phát triển năng lực HS

- Năng lực chung: Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực hợp tác.

- Năng lực riêng: cảm thụ thẩm mĩ, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

B. PHƯƠNG TIỆN

- GV: Giáo án, tài liệu tham khảo.

- HS: vở ghi.

C. PHƯƠNG PHÁP

GV chủ yếu dùng phương pháp đàm thoại, giúp HS củng cố lí thuyết, rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

ĐỀ 1.

“Một thực tế phổ biến hiện nay là với đa phần giới trẻ các trường nghề chỉ được coi là lựa chọn cuối cùng khi giấc mơ gõ cửa các trường đại học của họ không đạt được”.

(Trích “Không thể hội nhập chỉ với kĩ sư, tiến sĩ” – Nguyễn Công Thảo , báo Vietnamnet.)

Hãy nêu suy nghĩ của anh / chị về ý kiến trên bằng một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ).

Bài làm

Với mỗi chúng ta, sau khi kết thúc những năm tháng trên ghế nhà trường, mỗi người lại lựa chọn cho mình một con đường riêng để đi tới thành công. Nhưng “Một thực tế phổ biến hiện nay là với đa phần giới trẻ các trường nghề chỉ được coi là lựa chọn cuối cùng khi giấc mơ gõ cửa các trường đại học của họ không đạt được”. Việt Nam là một đất nước nông nghiệp phải trải qua rất nhiều vất vả, khó nhọc, lao động mệt mỏi mới mong có được cuộc sống đầy đủ. Do đó, suy nghĩ và quan điểm cho rằng: chỉ HỌC, HỌC và HỌC mới có thể giúp mình phát triển, thoát khỏi sự nghèo khó sau lũy tre làng đã trở thành quan niệm ăn sâu vào tiềm thức và suy nghĩ của mỗi người. Vì vậy, đại học luôn là mục tiêu cao nhất và là nơi duy nhất được mọi người theo đuổi, cố gắng mọi giá để đạt được. Nhưng không phải ai cũng có đủ điều kiện hay may mắn để bước vào cánh cửa đó. Và khi niềm hy vọng bị dập tắt thì nhiều bạn trẻ mang theo sự chán nản, buông xuôi, thất vọng để lựa chọn theo học những trường nghề. Nếu các trường đại học tập trung đào tạo về tri thức nghiên cứu thì kĩ năng là mục tiêu đào tạo của các trường dạy nghề. Nếu xét trên các phương diện thì đây là hai yếu tố chủ đạo để phát triển kinh tế và đều được đề cao như nhau. Nhưng ở Việt Nam thì nghề chỉ được coi là “Chiếu dưới”. Đây không phải một hiện tượng đơn lẻ mà phổ biến trong cả nước. Nói cách khác, nhiều suy nghĩ tiêu cực còn nghĩ rằng vào trường nghề là một thất bại cực kì nặng nề. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.Trước hết đó là nhận thức. Chúng ta vẫn chưa thoát khỏi được quan niệm học nghề chỉ dành cho những công việc chân tay vất vả, phục vụ những công việc thiên về thể lực, ít cần đến nghiên cứu hay sáng tạo. Chưa tính đến thực tế hay hiệu quả công việc, trong các cuộc thi quốc tế, Việt Nam chỉ luôn đạt giải và thành tích cao ở những môn thi về lý thuyết còn những bộ môn yêu cầu kĩ năng thì nước ta vẫn rất hiếm khi được vinh danh. Thiết nghĩ, chúng ta cần thay đổi về cả nhận thức và hành động để xóa bỏ ranh giới giữa học đại học và học nghề.. Chính sách phát triển nên chú trọng đầu tư them cho các trường đào tạo nghề để tạo điều kiện tốt nhất cho việc học tập, thực hành của học viên, giúp đào tạo được nguồn nhân lực có tay nghề cao. Mỗi người cũng cần thay đổi nhận thức của mình. Dù là phát triển, đóng góp về tri thức hay lao động để tạo ra những sản phẩm hữu hình, có giá trị và thiết thực thì đều được trân trọng và có một vị trí như nhau.Đã đến lúc loại bỏ quan niệm chỉ đại học mới mang lại hạnh phúc và thành công. Hãy cùng thay đổi để các trường nghề trở thành một trong những lựa chọn tích cực của thế hệ trẻ thay vì con đường tạm thời, mang tính giải pháp khi cánh cửa đại học khép lại.

ĐỀ 2.

Viết đoạn văn nghị luận xã hội trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý nghĩa câu nói : ”Nếu tôi không cháy lên, nếu anh không cháy lên , nếu chúng ta không cháy lên thì làm sao bóng tối có thể trở thành ánh sáng”.

Bài làm

Con đường đi đến thành công sẽ rộng mở hơn nếu mỗi chúng ta dám cháy hết với những đam mê , hoài bão của mình. Điều này được đúc kết từ chân lí sống của Nazim Hikmet :”Nếu tôi không cháy lên ,nếu anh không cháy lên , nếu chúng ta không cháy lên thì làm sao bóng tối có thể trở thành ánh sáng”. Đó là một triết lí sống cao đẹp đầy ý nghĩa . ” Cháy lên” là sự phát sáng , bùng cháy , lan tỏa hơi ấm rong không gian. Nhà thơ đã mượn hình ảnh ” cháy lên” để nói về sự bứt phá , nghị lực vươn lên và cũng có thể hiểu là sự dấn thân , dám đương đầu của con ng trước muôn vàn khó khăn, trắc trở. Bóng tối là biểu trưng cho cái xấu , cái ác, nó đi ngược lại với những điều tốt đẹp trong cuộc sống như lòng nhân hậu vị tha, dũng cảm..Qua đó Nazim muốn nhắn gửi tới người đọc thông điệp: nếu chúng ta không dám hành động,không dám dấn thân, đứng lên thì bóng đêm sẽ mãi ngự trị , ánh sáng không thể xuất hiện cũng như những điều tốt đẹp ấy không thể tồn tại trên đời! Vì cuộc đời không phải là thảm trải đầy hoa hồng nên chúng ta luôn phải vươn mình để khẳng định bản thân và để trưởng thành hơn. Xung quanh ta có biết bao người kiên trì theo đuổi ước mơ của mình. Họ là những con người dám sống hết mình, không ngừng nỗ lực và dám đối mặt với thất bại để đạt được mục tiêu của mình . Đâu đó cũng có những người dám đứng lên bênh vực chính nghĩa , dám đấu tranh vì một tương lai tươi sáng hơn. Chúng ta không thể không nhắc đến những con người bằng tài năng, sức lực cùng với khối óc đầy đam mê và nhiệt huyết đang ngày đêm âm thầm cống hiến cho xã hội , đất nước.Có thể kể đến Wilma Rudolph, một cô bé có đôi chân gần như bị liệt nhưng vẫn cố gắng tập luyện để theo đuổi ước mơ điền kinh của mình.Sau nhiều năm khổ luyện , cô bé ngày nào đã trở thành Nữ vận động viên xuất sắc nhất năm 1960.Hay nghệ sĩ Violon Perlman thường phải chống nạng để biểu diễn do căn bệnh bại liệt. Ấy vậy mà khúc nhạc của ông đã lay động hàng triệu trái tim hơn cả thế khúc nhạc ấy được tấu lên bởi một ý chí dũng cảm , vượt lên khó khăn để theo đuổi hoài bão. Đó là minh chứng sáng cho tinh thần chiến thắng nghịch cảnh, không ngừng ” cháy lên” và đem ánh sáng cho đời.”Cháy lên” sẽ giúp con người sống có chí hướng , bản lĩnh vững vàng để bước qua mọi thử thách, Nó giúp con người biết quý trọng từng giây phút trong cuộc đời, biết đem ngọn lửa của mình thắp sáng cho bầu trời nhân loại. Thế nhưng rất đáng buồn hiện nay, bên cạnh những người sống xả thân, sống nghị lực vẫn còn nhiều người chọn cách sống ích kỉ, phó mặc cho số phận .Chẳng hạn như trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng ngày nay, một bộ phận không nhỏ trong xã hội không dám lên tiếng thậm chí tìm mọi cách che đậy để thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình.Có những con người chỉ vài lần thất bại song chán nản chìm đắm vào biển tuyệt vọng để rồi ngã gục trước giông tố cuộc đời .Những biểu hiện đó thật đáng phê phán. Điều cốt yếu của mọi sự ” cháy lên” là tạo bước ngoặt trong nhận thức nhưng vẫn chưa đủ mà cần phải có kế hoạch rõ ràng và hành động ngay vì sống là không chờ đợi .Sự cháy lên ấy cũng cần xuất phát từ khả năng thực tế của con người.Câu nói đã để lại bài học sâu sắc : trước thử thách khốc liệt của cuộc đời hãy tìm cho mình nguồn động lực để thắp sáng tương lai.Hãy mạnh dạn phá vỡ giới hạn bản thân trên hành trình theo đuổi ước mơ và cống hiến cho xã hội .Xã hội luôn cần những cá nhân biết tỏa sáng và đem ánh sáng của mình giúp cho đời.” Giot nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi”. Lời khuyên của Nazim Hikmet đã khích lệ chúng ta cần có lí tưởng sống cao đẹp và cháy mãnh liệt hơn nữa để đứng vững trước thăng trầm cuộc đời.

ĐỀ 3.

Viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 từ trình bày suy nghĩ về câu nói : Đừng sống theo điều ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có thể

Bài làm

Con người sinh ra ai cũng có ước mơ, khát khao của riêng mình, tuy nhiên không phải bất cứ ai cũng chạm được đến cái đích của riêng mình. Câu ngạn ngữ “Đừng sống theo điều ta ước muốn. Hãy sống theo điều ta có thể” là một câu châm ngôn sống đầy kinh nghiệm để giúp con người lựa chọn cách sống của cá nhân. “Điều ta ước muốn” là những khát vọng, đam mê, ước mơ của bản thân mà con người luôn nỗ lực để đạt được, còn “điều ta có thể” là những việc trong khả năng mà con người có thể làm được. Có lẽ, chúng ta ai cũng ấp ủ với những giấc mơ của riêng mình, với những đam mê và khát vọng đã dần trở thành mục đích sống của chúng ta. Thế nhưng, đôi khi chính những khát vọng ấy lại đối lập với “điều ta có thể”. Có những ước mơ dường như xa vời mà chúng ta không thể chạm tới được, khiến ta trở nên hụt hẫng, tuyệt vọng, mất niềm tin vào bản thân. Đam mê và sự nỗ lực là hai yếu tố không thể thiếu trên hành trình đi tìm ước mơ của mỗi người, nhưng chỉ có vậy thì chưa bao giờ là đủ. Hãy giả sử, nếu chúng ta mơ ước trở thành một ca sĩ nổi tiếng, vậy mà giọng hát của chúng ta không được hay, không được thiện cảm thì chúng ta liệu có thể làm được không? Trong khi đó, khi làm những việc phù hợp với khả năng, chúng ta sẽ có cơ hội phát huy thế mạnh của bản thân và cống hiến nhiều hơn cho xã hội. Vậy nên câu nói là bài học nhắn nhủ con người cần phải có những ước mơ phù hợp với khả năng của bản thân. Tuy nhiên, nếu cứ mãi ở trong vùng giới hạn của bản thân, liệu cuộc sống của chúng ta có còn ý nghĩa? Liệu chúng ta có thể hiểu được bản thân nếu không có sự trải nghiệm và thử thách hay không? Dù biết rằng đôi khi ước mơ chỉ là những hoài bão xa vời, nhưng nó vẫn là động lực thúc đẩy chúng ta, để ta có niềm tin vào chính mình và vững bước trên con đường đời đầy chông gai này. Hơn nữa, chính những giấc mơ ấy là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, để con người không ngừng nỗ lực nghiên cứu, học hỏi và sáng tạo để nâng cao chất lượng cuộc sống. Chúng ta có thể thấy trong cuộc sống không thiếu những tấm gương đã vượt qua được những điều không thể của bản thân, để chạm tới ước mơ dường như quá xa xôi và khó khăn với họ. Beethoven- nhà soạn nhạc thiên tài người Đức- người đã không may mắn mất đi khả năng thính giác của mình, vậy mà nhờ có niềm đam mê mãnh liệt với âm nhạc, ông đã vượt qua giới hạn của bản thân để trở thành biểu tượng của nền âm nhạc cổ điển mà không ai trong chúng ta không biết tới. Nếu luôn hài lòng và thỏa mãn với bản thân, thì trên thế giới sẽ không có những tác phẩm kiệt xuất, không có những thành tựu tiến bộ để thế giới phát triển như lúc này. Và việc trải nghiệm, thử thách bản thân để thực hiện đam mê cũng là cơ hội đặc biệt để giúp chúng ta khám phá con người thật của mình. Cuộc sống là một bức tranh được tạo nên bởi những mảnh ghép đa sắc màu, có lẽ một vài mảnh ghép ta chỉ có thể ngắm nhìn, nhưng cái cứ để nó song song tồn tại với những điều có thể của ta để cuộc sống của ta đa dạng hơn. Và đừng ngại với những ước mơ xa vời mà hãy luôn nỗ lực phấn đấu với con đường mà chính mình đã lựa chọn, bởi không ai có quyền đánh thuế giấc mơ của chúng ta, và biết đâu một ngày nào đó, chúng ta lại có thể thực hiện được nó, như biết bao người đã từng thành công trên chặng đường đi tìm giấc mơ đầy thú vị này.

ĐỀ 4.

Viết đoạn văn Nghị luận xã hội 200 từ trình bày suy nghĩ về ý kiến : Nơi nào có ý chí nơi đó có con đường.

Bài làm

Cuộc sống đâu phải thảm nhung trải sẵn cho chúng ta qua. Ẩn chứa trong nó là vô vàn những khó khăn thử thách ngăn cản bước đi buộc chúng ta phải tự vượt qua bằng chính sự nỗ lực, ý chí của mình.Đề cao giá trị,vai trò của ‘ý chí’ trong cuộc đời, sự thành công của mỗi người, Pauline Kael từng nói ” Nơi nào có ý chí. Nơi đó có con đường”. Vậy chúng ta hiểu câu nói trên như thế nào? ‘Ý chí’ là khả năng mỗi người tự xác định được mục tiêu và nỗ lực vươn lên khắc phục mọi khó khăn để đạt được mục tiêu ấy. ‘Con đường’ ở đây được hiểu theo hai nghĩa là đường đi,hướng đi hay chính là sự thành công..Qua đó, P.Kael như đang muốn nhắn gửi rằng : mỗi chúng ta nếu có ý chí sẽ có sự vươn lên, tiến về phía trước, tìm ra và đạt được thành công nhất định cho bản thân mình. Chúng ta cần phải có ý chí bởi cuộc đời là cái hoàn cảnh mà con người buộc phải lựa chọn :Hoặc là quy phục hoặc là vượt qua. Nó luôn đầy rẫy những chông gai, biến cố nên ‘ý chí’ là yếu tố cần thiết thiết để con người duy trì ước mơ, khát khao , để biến tiêu cực thành tích cực..Người có ý chí là người không ngại thất bại, không chùn bước trước những trở ngại,dùng mọi nỗ lực để khắc phục khó khăn, kiên trì theo đuổi mục đích..Trên thế giới có rất nhiều những tấm gương mang tên ‘ý chí’ đáng để chúng ta học hỏi: Đó là Jessica Fox- sinh ra tại Mĩ , người phi công đầu tiên trên thế giới chỉ dùng chân lái máy bay. Sinh ra đã không có tay, nhưng chính sự thiếu may mắn ấy đã tạo cho cô ý chí, động lực để tiến lên đạt được khát khao của mình. Hay Hellen Keller ,20tuổi bị bệnh hoá mù,điếc. Nhưng nhờ có ý chí,vượt lên số phận , bà vẫn học rộng hiểu sâu. Viết được 7 quyển sách. đi diễn thuyết khắp châu Âu , châu Mỹ và được cả thế giới biết đến. Đó là minh chứng cho ý chí,tinh thần vươn lên chiến thắng số phận để tìm ra “con đường”. Có ý chí sẽ tạo nên sức mạnh tuyệt đối giúp chúng ta đạp phẳng, san bằng mọi khó khăn để tìm ra hướng đi,tìm ra ánh sáng của sự thành công. Con người có ý chí sẽ thể hiện được bản lĩnh, khẳng định được giá trị của bản thân.Song, bên cạnh đó vẫn tồn tại một số ít những người luôn tiêu cực, không có ý chí tiến lên, chỉ biết đầu hàng chấp nhận số phận. Đó là những người đáng bị phê phán. Tuy nhiên, ý chí phải được tạo nên từ sự xác định đúng đắn mục tiêu, sự quyết tâm chứ không phải “ý chí” mù quáng,tham lam.Biết vươn lên ,vượt qua hoàn cảnh là tốt nhưng phải biết điểm dừng, không nên làm những gì quá khả năng,sức lực của mình nếu không chúng ta chẳng những không thành công mà sẽ nhận thất bại. Nhận thức về vai trò quan trọng ,cần thiết của ý chí trong sự thành công chưa đủ, mỗi chúng ta cần phải có những kế hoạch,hành động để thực hiện; cần có những sự ‘dám’: dám đương đầu,dám vượt qua, dám đi lên;để cùng ‘ý chí’ biến mục tiêu thành hiện thực. Để rồi cũng giống như ngọn hải đăng soi sáng cho con thuyền vượt qua những trở ngại trên biển; ý chí sẽ soi sáng ,dẫn lối giúp con người vượt qua mọi biến cố, chông gai,thử thách trên con đường đi tìm thành công của cuộc đời.

ĐỀ 5. 

Trong bức thư gửi hiệu trưởng nơi con trai mình theo học, Tổng thống Abraha Linhcon viết “Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ”.Anh/chị có suy nghĩ gì về lời nhắn gửi đó? Hãy trình bày quan điểm bản thân bằng đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ)

Bài làm

Mỗi chúng ta không phải đều được tạo nên từ những phần tươi đẹp, có những góc tối u ám mà mỗi người luôn cố gắng khắc phục. Và có lẽ, hai chữ “đố kỵ” là điều mà không ai mong muốn nhưng nó lại luôn hiện hữu mạnh mẽ trong ta. Trong bức thư của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học, ông đã viết “Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ”. Dù bức thư đã được viết hơn 200 năm trước nhưng dường như lời nhắn gửi của ông vẫn còn vẹn nguyên giá trị. “Đố kỵ” là một thói xấu phổ biến trong xã hội. Đó là cảm giác ghen ghét, hậm hực, uất ức trước sự thành công, trước sự uy việt hoặc trước uy tín của người khác. Nhà văn Tạ Duy Anh đã nói “thói ghen tị là một thuộc tính của con người – luôn luôn ẩn náu trong chúng ta và luôn luôn chờ thời cơ để nhảy bổ vào chi phối những suy nghĩ, ứng xử, hành động của ta…cái con rắn ghen tức, đố kị sẽ tìm cách khuất phục lý trí để ngóc đầu dậy tác oai tác quái”. Như vậy, tổng thống Lincoln không chỉ muốn nhắn gửi đến sự giáo dục – hãy dạy trẻ em tránh xa góc tối đố kỵ đó mà còn hướng đến tất cả mọi người, chúng ta cần chung tay để loại bỏ nó. Sự đố kỵ bắt nguồn từ đâu. Nó sẽ xuất hiện khi ta thấy xấu hổ bởi không thành công hay có được điều gì đó như những người khác. Nó cũng len lỏi khi ta muốn sở hữu thành công, danh vọng,…nhưng lại không chịu cố gắng, không học tập. Đã biết bao câu chuyện về sự đố kỵ. Trong truyện cổ tích “Sọ Dừa”, hai cô chị vì ghen ghét, đố kỵ với em lấy được Sọ Dừa – khi chàng đã trở nên khôi ngô mà hãm hại chính em gái ruột của mình. Nhưng rồi chính họ lại phải gánh chịu hậu quả. Hay như sự việc, một loạt những “anh hùng bàn phím” đã ra sức để chỉ trích, bôi nhọ MC Phan Anh khi anh có được sự tin cậy của đông đảo người dân để đóng góp vào quỹ từ thiện của mình. Đố kỵ gây ra vô vàn những hậu quả. Đối với cá nhân, nó làm thui chột những tình cảm tốt đẹp, nhiều mối quan hệ thiêng liêng, làm cho con người trở nên nhạt nhẽo, tầm thường, thậm chí độc ác, ích kỉ. Đối với xã hội, nó kìm hãm tài năng, cản trở phát triển hay kéo lùi sự phát triển của lịch sử. Trong quá trình học tập và rèn luyện để hoàn thiện nhân cách của mình, chúng ta phải dũng cảm, phải kiên quyết loại bỏ thói ghen tị “Đừng để cho con rắn ghen tị luồn vào trong tim. Đó là một con rắn độc, nó gặm mòn khối óc và làm đồi bại trái tim” (Ét-môn-đô A-mi-xi). Thay vì ghen ghét, hãy coi thành công của người khác là tấm gương để chúng ta học tập, noi theo, phấn đấu. Cuộc sống sẽ rạng rỡ, tươi đẹp hơn nếu không còn sự hiện hữu của “đố kỵ”. 

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

 Trong bài “Thơ tự sự”, nhà thơ Nguyễn Quang Vũ có viết “Hạnh phúc như bầu trời này vậy / Không chỉ dành cho một riêng ai”. Hãy bày tỏ quan điểm của anh/chị về ý kiến trên bằng đoạn văn nghị luận ( khoảng 200 chữ)

Bài làm

Trong cuộc sống, mỗi chúng ta đều có một mục tiêu, một ước mơ để theo đuổi. Nhưng có lẽ, khát vọng lớn lao nhất đó chính là “ Hạnh phúc”. Và nhà thơ Nguyễn Quang Vũ đã dành ngòi bút của mình để viết nên những lời nhắn gửi ý nghĩa “ Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy / Không chỉ dành cho một riêng ai” – một thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về hạnh phúc. “Bầu trời” nếu theo cách lý giải thông thường chính là thực thể rộng lớn, vô thủy vô chung, là của chung tất cả, là bầu khí quyển mà ta hít thở hàng ngày. Còn khi bạn có cảm giác bình an, hài lòng trong cuộc sống thì đó chính là “hạnh phúc”. Quan niệm “Hạnh phúc như bầu trời” chính là muốn nhấn mạnh hạnh phúc là món quà của thượng đế dành cho cả nhân loại và vạn vật trên thế giới. Nhưng cũng vì thế mà không ai có thể ôm trọn được hạnh phúc cho mình. Hạnh phúc luôn bao bọc quanh chúng ta, càng nhiều người hạnh phúc, bầu trời chung ấy càng rộng lớn. Và ta sẽ càng gần bầu trời ấy hơn khi ta biết vươn lên và cố gắng. Như vậy, trong cuộc sống, muốn cảm nhận vầng hào quang rạng ngời của hạnh phúc, chúng ta không chỉ cần nỗ lực, cố gắng mà còn cả sự san sẻ, giúp đỡ mọi người để hạnh phúc đến muôn nơi. Chúng ta vẫn thường nghĩ hạnh phúc là đi liền với sở hữu, nghĩa là gắn liền với chữ “có” : có sức khỏe, có tiền bạc, có công việc ổn định, có gia đình tốt…nhưng chưa chắc những điều đó đã đảm bảo một cảm giác hạnh phúc. Những cái “có” đó phải chăng rất phù phiếm. Nếu bạn cảm thấy hạnh phúc khi mua được căn nhà mới liệu cảm giác ấy có kéo dài 1 tuần hay khi nhận được một vị trí cao trong công việc liệu sẽ hạnh phúc trong bao lâu? Thực tế cho thấy những người hạnh phúc thực sự là người biết cân bằng và san sẻ. Biết cho đi, biết giúp đỡ người khác thì hạnh phúc sẽ tự tìm đến tâm chúng ta. Chắc hẳn các bạn đã nghe đến việc làm thiện nguyện của MC Phan Anh. Anh đã bỏ ra hàng trăm triệu đồng và công sức của mình, đồng nghiệp để mua những món quà cho đồng bào miền Trung bị lũ lụt. Trước hình ảnh nhân dân có cái ăn, cái mặc sau những ngày bão lũ, nhìn những nụ cười của họ, anh đã tâm sự rằng “Tôi thực sự cảm thấy rất vui, dù hành trình có nhiều khó khăn nhưng như có phép màu, tôi chưa từng một lần mệt mỏi”. Có lẽ, khi được cho đi, nhìn thấy nụ cười, niềm vui của những người nhận lại, đó chính là giây phút hạnh phúc nhất. Bởi lẽ, khi sở hữu quá nhiều, ta sẽ hao tâm để lo lắng, bảo vệ báu vật của mình, không còn tận hưởng cuộc sống đúng nghĩa. Nhưng khi biết sẻ chia, bầu trời hạnh phúc sẽ ngày càng mở rộng, tỏa ánh nắng ấm áp đến muôn nơi. Vì vậy, hãy luôn biết quan tâm, yêu thương đến những người xung quanh, hãy luôn giữ sợi dây liên kết giữa hạnh phúc cá nhân và tập thể. Hãy cùng tôi và mọi người để món quà mang tên Hạnh phúc quý giá đến với muôn nơi, vượt mọi không gian.

4. Củng cố

- Các yêu cầu, các bước viết đoạn văn nghị luận xã hội.

- Các dạng đề của kiểu bài nghị luận xã hội và cách làm bài.

5. Dặn dò

- Ôn bài cũ.

- Chuẩn bị bài : Khái quát chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam.

Ngày soạn : 20/09/2017

TIẾT 13-14.

KHÁI QUÁT CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng

- Biết phân tích những biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước trong văn học Việt Nam, cụ thể là với văn học trung đại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Bồi dưỡng lòng yêu nước, tình yêu văn học, tư duy tổng hợp, sáng tạo.

4. Định hướng phát triển năng lực HS

- Năng lực chung: Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực hợp tác.

- Năng lực riêng: cảm thụ thẩm mĩ, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

B. PHƯƠNG TIỆN

- GV: Giáo án, tài liệu tham khảo.

- HS: vở ghi.

C. PHƯƠNG PHÁP

GV chủ yếu dùng phương pháp đàm thoại, giúp HS hình thành lí thuyết, rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. ÔN TẬP LÍ THUYẾT

1. Khái quát quá trình hình thành chủ nghĩa yêu nước

1.1. Hoàn cảnh lịch sử – xã hội – văn hoá

– Gắn bó với vận mệnh đất nước và số phận con người.

– Hấp thụ nguồn VHDG

– Từng bước tiếp thu văn hoá Trung Hoa trên cơ sở ting thần và bản lĩnh dân tộc, từng bước phát triển bộ phận văn chương bác học và xác lập những giá trị văn học đậm đà bản sắc dân tộc, vận động theo chiều hướng dân tộc hoá và dân chủ hoá.

– Phản ánh sắc nét cuộc đấu tranh không ngừng vì khát vọng độc lập dân tộc và những giá trị tinh thần cao cả của con người.

1.2. Quá trình phát triển nội dung yêu nước

– Thời kì quốc gia độc lập

+ Văn học khai thác từ nguồn văn học dân gian để tôn vinh những anh hùng thần thoại có công lập nước.

+ Nhấn mạnh truyền thống văn hoá riêng.

+ Nghĩa đồng bào và tình cảm gắn bó với núi sông nước Việt.

– Thời kì Tống,  Nguyên, Thanh xâm lược.

+ Văn học nổi lên tiếng nói chiến đấu, căm thù giặc, ý chí diều kịên bảo vệ lành thổ.

– Thời kì nhà Minh đặt ách đô hộ.

Văn học đóng vai trò “đao bút” lấy ngòi bút làm vũ khí tinh thần động viên toàn dân đứng lên đánh giặc, ý chí đoàn kết bảo vệ lãnh thổ.

– Thời kì nạn cát cứ như 12 sứ quân

+ Văn học phán mạnh mẽ tầng lớp thống trị, phản ánh sâu sắc khát vọng hoà bình, thống nhất. Gắn liền với tiếng nói yêu nước là sự khẳng định giá trị nhân đạo ở nhhững giai đoạn mà quyền sống của con người được nhấn mạnh.

– Giai đoạn văn học nửa cuối TK  XVIII hết TK XIX.

+ Ý thức đề cao con người, đề cao hạnh phúc đời thường xu thế đòi hỏi giải phóng tình cảm cá nhân và ước vọng vượt lên mọi quy luật tù túng của XHPK.

=> Nội dung yêu nước và nhân đạo vừa gắn liền vừa đan xen vừ tiếp nối vừa phát triển -> quyết định bản sắc và truyền thống văn học.

VD: Hịch, cáo, chiếu, biểu, văn thư binh vận, thơ ca chiến trận-> nghiêng về nội dung yêu nước.

+ Văn học trữ tình và thế sự: Thiền, truyện thơ, ngâm khúc, hát nói -> tiếng nói nhân đạo.

2. Biểu hiện của cảm hứng yêu nước trong văn học trung đại:

  • Yêu nước gắn với tư tưởng tôn quân (yêu vua, trung hiếu với vua).
  • Tự hào dân tộc.
  • Yêu thiên nhiên, quê hương, xứ sở.
  • Khát vọng và quyết tâm cống hiến bảo vệ và xây dựng đất nước.

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề bài :

Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại.

Bài làm :

Văn học là dòng chảy không ngừng của thời gian, các nhà văn nhà thơ là thư kí trung thành của thời đại. Ta bắt gặp được những bản tuyên ngôn độc lập với giọng đọc hào sảng của Nước Việt Nam qua “Nam quốc sơn hà”hay một bài hịch vang núi sông  ngỡ còn đâu đây trong “Hịch tướng sĩ” của Trần quốc Tuấn…và đó chính là những biểu hiện đẹp về trào lưu chủ nghĩa yêu nước tô đậm trong nền văn học trung đại.

Dân tộc Việt Nam trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, những chiến tích oanh liệt của các vua hùng, tướng sĩ được tạc trên sổ vàng của lịch sử. Văn học phản ánh chân thực và rõ nét qua các tác phẩm văn chương.

Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, nước ta tồn tại dưới các triều đại phong kiến từ hưng thịnh đến suy vong. Văn học trung đại với nhiều nguồn cảm hứng khác nhau, trong đó yêu nước và nhân đạo là hai trong bốn nguồn cảm hứng chi phối ngòi bút của nhà thơ, nhà văn. Nhưng chủ nghĩa yêu nước tồn tại với những biểu hiện rõ nét, dưới nhiều cung bậc, màu vẻ khác nhau.

Yêu nước là niềm tự hào, tự tôn dân tộc, là lòng căm thù giặc sâu sắc với ý chí quyết tâm dẹp loạn, giành độc lập tự do; là lòng trung quân ái quốc; tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc; tố cáo tội ác của giặc; khát vọng hòa bình . Ngoài ra còn thể hiện ở nhiều cung bậc tâm trạng: buồn vui, sung sướng, hả hê, hay tủi nhục, hân hoan…

Có thể nói, trong những thế kỉ đầu, văn học viết về những chiến công anh dũng, lấp lánh ánh hào quang của tinh thần yêu nước.

Mở đầu với “Bản tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của nước Đại việt với lòng tự hào, tự tôn dân tộc của Lý Thường Kiệt:

“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc giữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ”

Với giọng đọc hùng hồn, vang dội, bài thơ là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, không tên giặc ngoại xâm nào có thể “xâm phạm” đến đây và lời tuyên ngôn rõ ràng, nhất quyết về tội ác của giặc sẽ phải chịu:

“Giặc giữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ”

Yêu nước còn là tấm lòng trung quân ái quốc, luôn xưng đế:

“Như nước Đại việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)

Nước đại việt với những phong tục, tập quán riêng, trải qua bao đời nay nó đã trở thành “nền văn hiến” không thể nào xóa bỏ.

Nhưng trong các triều đại phong kiens, nước ta luôn phải chống giặc ngoại xâm thì không thể nào không có một trái tim hừng hực cháy bỏng về lòng căm thù giặc và một ý chí quyết tâm sắt đá đánh đuổi giặc như trong “ Hịch tướng sĩ” vang núi sông của Trần quốc Tuấn.

“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức một nỗi chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng thấy cam lòng…”.

Đó là tâm trạng căm phẫn tột cùng và một hào khí “sát thát” Đông A của thời Trần. Ông căm ghét lũ giặc đi nghênh ngang ngoài đường trên đất Nam, và coi đó như lũ cú, lũ hổ đói… và có lẽ bởi thế, bằng các động từ mạnh: xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu… đã lột tả hết được tâm trạng lên đến đỉnh cao của Trần quốc Tuấn. Lời thủ thỉ của tướng sĩ khiến bao an hem trong đội phải dấy lên những cảm xúc để họ một ngày nào đó sẽ “ nhà nhà giỏi như Nguyễn Huệ, …bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửu sông…”tất cả đều xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc.

Đến với “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, một áng “ thiên cổ hùng văn” như một bản ngôn dân quyền của nước đại Việt ta. Một lời tố cáo tội ác của giặc như khiến lòng độc giả cũng phải hòa mình vào thời ấy.

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Lũ giặc gây bao tội ác như thế, làm sao ta không căm tức, không muốn diết giặc:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tất cả vì dân, “ vì nước quên thân, vì dân diệt bạo”.

Ta còn bắt gặp một ông vua chúa Trịnh ăn chơi xa đọa, không chăm lo cho cuộc sống của người dân, bỏ bê việc triều chính. Không chỉ có vậy, mà đến các tầng lớp quan lại cũng là lũ “đầu trâu mặt ngựa” nửa đêm đi lùng tìm những cây quí của nhà dân rồi đổ tội oan cho dân, đẩy họ vào bước đường cùng không lối thoát.

Bên cạnh đó, tình yêu đất nước còn thể hiện ở khát vọng hòa bình của mọi người dân.

“Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu”

(Phò giá về kinh – Trần Quang Khải)

Đó là những chiến công hiển hách oanh liệt để làm nên chiến thắng thanh bình như ngày hôm nay. Khát vọng hòa bình của người dân được đẩy thêm một nấc. Một lời tâm sự của Nguyễn Trãi mang bao khát vọng:

“Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch thù”

Từ đó thúc đẩy ý chí của mọi người để vươn lên tới hòa bình, hạnh phúc, ấm no. Cảm xúc trước cuộc sống thanh bình của người dân:

“Giặc tan muôn thủa thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao”

Vì non sông gấm vóc, nước Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả giành lại đất nước. Ngoài ra, chủ nghĩa yêu nước còn là tình yêu thiên nhiên sâu đậm. Đọc thơ Nguyễn Trãi, thiên nhiên như ùa về trong ta với bao cảnh đẹp:

“Một mình nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
Trong tiếng quốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”

Thì ra Nguyễn Trãi khép phòng văn chứ ông không khép lòng mình, mà ông luôn mở rộng lòng mình đến với thiên nhiên tươi đẹp. Sắc tím của hoa xoan đã trở thành ấn tượng đối với thi nhân. Ông yêu thiên nhiên bởi nó không có cái nham hiểm của lòng người. Màn mưa bụi khép lại khiến lòng ta xao xuyến, nhớ mãi. Hay đến với thứ cỏ xanh non sau cơn mưa còn vương như những làn khói mờ mờ, hư thực:

“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”

(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)

Không gian đưa đến với màu xanh của cỏ, màu trắng của khói sớm, và hơn thế là sự tĩnh lặng của một miền quê xa vắng ngỡ còn đâu đây. Ta bắt gặp tiết trời thu xanh ngắt cugnf ánh trăng mờ ảo huyền diệu trong “Thu vịnh” của Nguyễn Khuyến:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu”

Thu của làng cảnh Việt Nam thật mộc mạc, bình dị mà thân thuộc, gần gũi.

Con người Việt Nam đẹp như thế, họ có tình yêu thương sâu sắc khiến ta thêm tự hào và trân trọng biết bao. Bởi vậy, chủ nghĩa yêu nước như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt chặng đường dài rộng của nền văn học nước nhà. Các nghệ sĩ nối tiếp nhau viết về chủ nghĩa đó bằng cả niềm tin và tình yêu vô bờ đối với con người và tình quê chan chứa. Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn mỗi người bởi lẽ “với quá khứ, ta xây dựng được tương lai”. Càng đọc ta càng thấm thía trong từng trang viết về một thời đại vang danh núi sông bởi “ Mỗi con người là một bài thơ đẹp”.

BÀI TẬP VỀ NHÀ

Truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc của ông cha ta xưa kia qua một số tác phẩm văn thơ cổ đã học và đọc thêm: Sống núi nước Nam của Lí Thường Kiệt; Hịch tướng sĩ của Trấn Quốc Tuấn; bài Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi.

Bài làm

Núi kia ai đắp mà cao?

Sống kia, bể nọ ai đào mà sâu?

Ông cha ta ngàn đời đã gây dựng, giữ gìn núi sống, đất nước này để truyền lại cho chúng ta hôm nay. Đất nước, dân tộc ta tồn tại, phát triển chính là nhờ nhân dân ta có truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc.

Ba tác phẩm trong nền văn học trung đại Việt Nam: Sông núi nước Nam; Hịch tướng sĩ và Đại cáo bình Ngô đã phản ánh sâu sắc truyền thống yêu nước nồng nàn và lòng tự hào dân tộc chân chính của ông cha ta xưa kia.

Khi quân xâm lược nhà Tống tràn sang nước ta (1076-1077), Lí Thường Kiệt đọc bài thơ “Thần” như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất khẳng định chủ quyền nước Nam là của dân Nam. Khi đại quân Mông - Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu kéo sang xâm phạm chủ quyền dân tộc, vào năm 1285, “Hịch tướng sĩ” đã được Trần Quốc Tuấn truyền dạy trong các cấp tướng sĩ của mình. Và khi kết thúc mười năm kháng chiến gian khổ chống quân Minh, thắng lợi trọn vẹn vào năm 1428, Nguyễn Trãi đã tổng kết bằng bản văn “Bình Ngô đại cáo” bất hủ.

Ba áng thơ văn đều vang lên tiếng nói yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm và niềm tự hào về một dân tộc anh hùng.

Yêu nước và tự hào dân tộc là một truyền thống vô cùng quí báu mà từ khi hình thành dân tộc này, đất nước này, ông cha ta đã truyền lại cho đến ngày hôm nay và mãi mãi mai sau.

Lí Thường Kiệt khẳng định: Nước Nam có lãnh thổ riêng, có chính quyền riêng.

“Sống núi nước Nam vua Nam ở”.

Điều này đã được ghi ở “sách trời”. Sách trời là cơ sở pháp lí, là “thiên định”. Lí Thường Kiệt đã ghi lại những điều ấy để quân giặc thấy rõ hơn và quân dân ta càng tin tưởng hơn!

Rành rành đã định ở sách trời.

Lí Thường Kiệt vịn vào “thần”, vào “sách trời” để nêu chính nghĩa của dân tộc. Trần Quốc Tuấn không nói đến “thần” nữa. Vì nước ta thật sự đã có chủ quyền, có văn hóa: Triều đình riêng, nhạc thái thường, thái ấp, tông miếu. Vậy mà quân giặc là loài dê chó dám xâm phạm, làm nhục nước ta!

Đến thế kỉ XV, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi viết bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai đã nêu đầy đủ niềm tự hào chân chính của dân tộc Đại Việt:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sống bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc - Nam cũng khác...

Nước ta thật sự là một nước độc lập, có chủ quyền. Nhân dân ta đã ra sức bồi đắp thành nền văn hiến ngàn năm. Trên lãnh thổ này đã có dân Việt với nền văn hóa riêng, khác hẳn văn hóa phương Bắc. Anh hùng hào kiệt thì nước Đại Việt lại càng không thiếu.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập.

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương.

Tự hào dân tộc, cha ông ta càng yêu nước nồng nàn. Khẳng định “Sống núi nước Nam vua Nam ở” là một khẳng định yêu nước. Vua tức là nước, lúc bấy giờ nói vua Nam hay hoàng đếnước Nam chính là đốichọi lại với “Thiên triều” Trung Hoa. Không phải là tuyên chiến, mà là cảnh cáo quân giặc cướp nước, cho chúng biết trước cái thất bại thảm hại tất yêu sẽ đến với chúng.

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Lí Thường Kiệt đã nói lên truyền thông yêunước nồng nàn và niềm tự hào dân tộc chân chính. Không tự hào dân tộc chân chính thì không dám đánh giặc giữ nước. Ta phải đánh giặc vì giặc xâm phạm đất nước ta.

Ở“Hịch tướng sĩ”, niềm tự hào dân tộc càng sâu sắc hơn. Vì tự hào dân tộc nên cảm thấy bao nhiêu cái nhục khi quân giặc xâm phạm chủ quyền: “Nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn...”.Yêu nước là phải biết bảo vệ, gìn giữ đất nước, không thể ngồi yên, khoanh tay nhìn cảnh “sứ giặc đi nghểnh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ..., vơ vét tiền của bạc vàng”. Phải hướng tất cả lòng căm thù về phía quân giặc cướp nước: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng...”.

Nguyễn Trãi viết thay Lê Lợi, cũng là viết thay nhân dân niềm tự hào chân chính của dân tộc. Quá trình dựng nước, giữ nước được tổng kết: “Song hào kiệt đời nào cũng có”. Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sống Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét Chứng cớ còn ghi.

Nhân dân yêu nước đã tập hợp chung quanh Lê Lợi, người anh hùng áo vải của đất Lam Sơn:

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới, tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sống chén rượu ngọt ngào...”.

Bởi chính vì Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng yêu nước hơn ai hết, hai người không thể ngồi yên nhìn quân Minh tàn bạo “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ...”, mà đã phải đau xót, căm hờn, quyết tiêu trừ giặc cướp nước: "... Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống. -Đau lòng, nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời...”.

Ở“Bình Ngô đại cáo”, chúng ta càng thấy trọn vẹn lòng yêu nước cao độ và niềm tự hào dân tộc chân chính. Chính lòng yêu nước, tự hào dân tộc đã tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng quân xâm lược dù chúng đông hơn, mạnh hơn ta gấp nhiều lần.

Trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm, ông cha ta thường lấy lòng tự hào dân tộc chính làm chính nghĩa để tập hợp lực lượng, đoàn kết nhân dân chống giặc.

Nguyễn Trãi xác định lập trường chính nghĩa sáng ngời:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Trần Quốc Tuấn kêu gọi các tướng của mình, từ bỏ thái độ thờ ơ hưởng lạc trước cảnh đất nước lâm nguy, mà phải: “Huấn luyện quân sĩ, tập dạt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở Cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai...”.

Có như vậy mới bảo vệ được “thái ấp” vững bền, xây dựng được hạnh phúc của mình và của đất nước.

Lí Thường Kiệt khẳng định sống núi nước Nam của vua Nam nên dân Nam quyết tâm chiến đấu giết giặc:

“Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”.

Truyền thống yêu nước tự hào dân tộc của ông cha ta gắn bó, thống nhất với nhau làm nên sức mạnh không thể thất bại.     .

Ngày nay đọc lại ba áng hùng văn trên, chúng ta vẫn còn nghe vang vọng truyền thống yêu nước bất khuất, niềm tự hào biết bao. Càng tự hào về những chiến công oanh liệt phá Tống, đuổi quân Mông - Nguyên, bình giặc Ngô xâm lược, chúng ta phải giữ gìn, phát huy truyền thống quí báu ấy.

Thế hệ hôm nay thừa hưởng biết bao truyền thống quí báu của ông cha ngàn đời để lại. Yêu nước là phải ra sức học tập, rèn luyện để xây dựng đất nước “to đẹp, đàng hoàng”, làm cho nước Việt Nam trở thành một nước giàu mạnh, sánh vai cùng với các cường quốc năm châu. Tự hào dân tộc chân chính không phải là tự kiêu, tự mãn, mà phải biết phát huy, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Làm được như vậy thanh niên chúng ta mới xứng đáng là cháu con của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Nếu được làm hạt giống mùa sau 
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa 
 Vui gì hơn làm người lính đi đầu 
Trong đêm tối tim ta là ngọn lửa.
(Tố Hữu)

BÀI VĂN MẪU

Văn học trung đại Việt Nam nếu hình dung như một thứ mùa vàng, một vụ quả bội thu thì mảnh đất gieo trồng của nó đầy máu, mồ hôi và cả ước mơ của người gieo hạt. Thế hệ ông cha chúng ta đã cần mẫn xới vun bằng tình yêu của mình với mảnh đất ấy. Sự nghiệp giữ nước gian khổ mà vinh quang, và ý thức trách nhiệm của người cầm bút đã đem đến văn học trung đại một cảm hứng lớn:cảm hứng yêu nước.
Có thể nói, cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam thể hiện trước hết ở lòng tự hào dân tộc. Chúng ta đã từng thấy dõng dạc vang lên trong bài thơ thần của Lý Thường Kiệt là tiếng nói đầutiên như âm vang từ khí thiêng sông núi dội về: đất nước Việt Nam do vua Nam làm chủ. Nước là của vua, vua là tượng trưng cho chủ quyền của nước:


Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời


Đến vơi Nam quốc sơn hà, người đọc không khỏi ngỡ ngàng như đứng trước một công trình nhỏ bé,bến chắc mà tài hoa. Bài thơ hoàn toàn không có vũ khí binh đao mà kì lạ thay ta vẫn nhận ra tiếngquân reo, ngựa hí…Sự liên tưởng nhiều tầng ấy phải chăng được gợi lên từ tiếng nói tự hào dân tộc của một con người giau lòng yêu nước và tinh thần tự chủ. Ở đây, ý thức tinh thần độc lập, tự chủkhá rõ nét. Bài thơ xứng đáng là một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Nếu không có lòng tự hào dân tộc thì khó có thể viết ra được những câu thơ đầy hoành tráng như thế.
Trong thơ trung đại, cảm hứng yêu nước còn thể hiện ở tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâmlược. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều này qua thơ các thi sĩ thời Trần, thơ Nguyễn Trãi…Một trongnhững thành tựu quan trọng của thơ thời Trần là đã thể hiện được chủ nghĩa yêu nước, ý chí quật cường chống quân xâm lược của dân tộc ta. Chính cảm hứng này đã tạo ra Hào khí Đông Á trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc. Hào khí ấy vang lên hùng tráng mà tha thiết qua khúc ca khải hoàn Tụng giá hoàng kinh sư của Trần Quang Khải:


Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang sơn.


Bài thơ làm sống dậy một không gian trận mạc chiến trường, đao kiếm với ngựa thét quân reo ngất trời tráng khí. Một trong hai trận ấy do đích thân Trần Quang Khải chỉ huy. Chương Dương, Hàm Tử nằm trong hệ thống chiến thắng mở màn có ý nghĩa chiến lược cho cuộc phản công thắng lợi, mạnh và nhanh, cường độ lớn và tốc độ phi thường đã tạo cho lời thơ khí thế hùng tráng, thiêng liêng.
Yêu nước, căm thù giặc tất yếu phải chiến đấu đến cùng cho lí tưởng ấy. Trong thơ trung đại Việt Nam dường như vẫn còn văng vẳng tiếng mài giáo dưới ánh trăng của Đặng Dung (Cảm hoài), cái múa giáo đầy thách thức của Phạm Ngũ Lão. Sự mất còn của non sông đã đặt gánh nặng lên vai con người thời cuộc với thử thách nặng nề: giết giặc cứu nước. Vậy nên trong Thuật hoài , Phạm Ngũ Lão đã xây dựng được hình tượng một con người tràn đầy khí thế, tầm vóc. Ở đó có cả sức mạnh của tướng sĩ ba quân trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, đồng thời đó cũng là sức mạnh của cả dân tộc. Từ suy ngẫm khái quát về tư thế, tầm vóc và sức mạnh của dân tộc chuyển sang suy ngẫm về bổn phận và trách nhiệm của cá nhân trước cộng đồng, Phạm Ngũ Lão đã có cách khơi khơi thật khéo léo: nếu đấng nam nhi còn vương nợ tức là chưa có công trạng gì với núi sông thì sẽ huống thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Đúng là cái thẹn của một của một nhân cách lớn, cái xấu hổlớn lao rất đáng trân trọng của Phạm Ngũ Lão. Ông xấu hổ với bản thân, với cộng đồng nhất là với một nam nhi thời loạn. Đến như Gia Cát Lượng, một con người đã từng xuất thế để quên đi sự đời nhưng cũng dời liều cỏ giúp Lưu Bị chấn hưng nhà Hán thời Tam Quốc, còn với sĩ phu đời Trần, trước tình thế Tổ quốc ngàn cân treo sợi tóc há chỉ đứng nhìn và bình thản hay sao?


Múa giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùm khí nuốt Sao ngưu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.


Đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tinh thần yêu nước của con người Việt Nam lại bật lên mạnh mẽ. Không thể cầm gươm tham gia nghĩa quân như các sĩ phu yêu nước khác, Nguyễn ĐìnhChiểu đã đánh giặc bằng ngòi bút:


Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà


Nỗi lo lắng và niềm đau xót cho ách nước, nạn dân ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Mỗi bữa thấy, mỗi ngày trông kẻ thù trước mắt lấn thêm một bước, Đồ Chiểu đau đớn như bị cắt đi một phần máu thịt. Cảm hứng bao trùm bài chạy tây là sự xửng sốt, nỗi bàng hoàng, lo lắng cho vận nước nạn dân:


Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay….


Cho nên tinh thần quyết chiến, quyết thắng không chỉ biểu hiện nơi trận mạc sa trường. Nó còn là lẽ sống, một hạnh phúc được sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc. Tư thế của Đặng Dung là tư thế của một kẻ anh hùng, một chí trai thời loạn:


Vai khiêng trái đất mong phù chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây..


Trong thơ, chúng ta nhận thấy dường như còn có những nỗi buồn sâu kín của con người trước sự đổi thay của đất nước, những cảnh trớ trêu trong xã hội, nạn chiến tranh, cát cứ, xâm lựơc. Đó là trường hợp Sông lấp (Tú Xương), Hội Tây (Nguyễn Khuyến)…Nghe tiếng ếch vẳng bên tai mà Tú Xương giật mình. Cái giật mình của Tú Xương là cái giật mình chứa bao đau xót trước hiện thực phũ phàng. Đó là cái giật mình của lòng yêu nước của tinh thần dân tộc sâu kín được ấp ủ, nung nấu nhưng không có cách nào giải tỏa đựơc:

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
(Sông lấp)


Còn với Nguyễn Khuyến thì sao? Ông xót xa trước những trò lố lăng, xúc phạm đến danh dự dân tộc do thực dân Pháp bày ra. Bên Hội Tây đã thể hiện sâu sắc nỗi đau đó:


Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.


Không chỉ có vậy, cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại còn thể hiện ở việc các nhà thơ ca ngợicảnh đẹp của quê hương đất nước. Trong thơ, thiên nhiên đất nứớc Việt Nam hiện lên thật đẹp đẽ, tráng lệ giàu đường nét, màu sắc. Với thơ thời Trần, qua cảnh trí thiên nhiên các thi sĩ đã gửi vào đó tình yêu quê hương đất nước của mình. Nguyễn Trung Ngạn khi đi sứ cũng đã viết nên những vần thơ xúc động về tình yêu quê hương đất nước với những phong vị riêng của một vùng đồng bằng Bắc Bộ:


Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách chẳng bằng về
(Quy Hứng)


Kể cả một chiếc lá đỏ thưa, một cánh cò chao liệng, một tiếng chuông vẳng trong mây trời, một tiếng sáo, thuyền câu ngoài bến đậu…Tất cả đều trở thành nguồn thi hứng cho các thi sĩ thời Trần:


Tiếng sáo thuyền câu ngoài bến đậu
Trăng rơi đầy nước, móc đầy sông


Còn Nguyễn Trãi, cảnh đẹp thiên nhiên, khí trời lúc sang xuân thật huyền hồ đầy âm thanh, màu sắc. Xuân về mang theo sự tươi tốt với những làn mưa. Cỏ ở bến xanh như màu khói bao la bát ngát:


Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
(Bến đò xuân đầu trại)


Như vậy cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam đã thể hiện ở nhiều khía cạnh phong phú và sâu sắc. Đất nước, dân tộc là nỗi niềm khắc khoải khôn nguôi trong tâm hồn con người Việt Nam nói chung và các thi sĩ nói riêng. Vậy nên, ở mỗi nhà thơ có cách khai thác, cảm nhận khác nhau song lại là vẫn sự thống nhất và làm nên một cảm hứng yêu nước lớn. Chính cảm hứng ấy đã làm nên cái độc đáo riêng và giá trị của thơ Việt Nam thời trung đại.

4. Củng cố

- Những biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước trong văn học Việt Nam

5. Dặn dò

- Học bài cũ. Làm bài tập về nhà.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 20/09/2017

TIẾT 15-16.

KHÁI QUÁT CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng

- Biết phân tích những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam, cụ thể là với văn học trung đại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Bồi dưỡng tình yêu con người, tình yêu văn học, tư duy tổng hợp, sáng tạo.

4. Định hướng phát triển năng lực HS

- Năng lực chung: Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực hợp tác.

- Năng lực riêng: cảm thụ thẩm mĩ, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

B. PHƯƠNG TIỆN

- GV: Giáo án, tài liệu tham khảo.

- HS: vở ghi.

C. PHƯƠNG PHÁP

GV chủ yếu dùng phương pháp đàm thoại, giúp HS hình thành lí thuyết, rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. ÔN TẬP LÍ THUYẾT

1. Vài nét về bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX gắn với sự ra đời, phát triển và suy vong của chế độ phong kiến Việt Nam.

Dân tộc giành được quyền độc lập tự chủ vào cuối thế kỉ X, lập nhiều kì tích trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược (Chống quân Tống thời nhà Lý, chống quân Mông - Nguyên thời Trần, chống quân Minh thời Lê). Chế độ phong kiến Việt Nam nhìn chung đang ở thời kì phát triển đi lên.

Bước sang thế kỉ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã có những biểu hiện khủng hoảng dẫn đến nội chiến và đất nước bị chia cắt.

Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, đất nước có nhiều biến động dữ dội.Chế độ phong kiến đi từ khủng hoảng đến suy thoái. Bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra mà đỉnh cao là phong trào nông dân Tây Sơn của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã cùng một lúc lật đổ các tập đoàn phong kiến, đánh tan các cuộc xâm lược của quân Xiêm ở phía Nam, quân Thanh ở phía Bắc.

Phong trào Tây Sơn suy yếu, triều Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến chuyên chế và đất nước nằm trước hiểm họa xâm lược của thực dân Pháp.

Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam. Xã hội Việt Nam chuyển dần từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến.

“ Văn học là tấm gương phản chiếu lịch sử”. Trước hiện thực đời sống xã hội như vậy, nhiều nhà văn, nhà thơ cảm thông số phận con người, họ đã đứng trên lập trường nhân sinh để giải quyết các vấn đề xã hội. Đó là thái độ phê phán cái xấu, cái ác; bênh vực, cảm thông với những bất hạnh, đau khổ của con người….

Những nét trên của hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn học đã làm nền cho cảm hứng nhân đạo của văn học trung đại.

2. Những nét khái quát về cảm hứng nhân đạo trong văn học trung đại việt Nam

2.1. Khái niệm giá trị nhân đạo

- Nhân đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình yêu thương giữa người với người.

- Nhà văn chân chính là những nhà nhân đạo chủ nghĩa, phất cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng con người và bênh vực quyền sống cho con người.

- Trong tác phẩm văn học, tư tưởng nhân đạo là tình cảm, thái độ của chủ thể nhà văn đối với cuộc sống con người được miêu tả trong tác phẩm. Giá trị nhân đạo của tác phẩm văn học thể hiện cụ thể ở : lòng xót thương những con người bất hạnh; phê phán những thế lực hung ác áp bức, chà đạp con người; trân trọng những phẩm chất và khát vọng tốt đẹp của con người; đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người…

- Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam.

2.2. Cội nguồn và những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam

* Văn học trung đại Việt Nam phát triển trong sự tác động mạnh mẽ của truyền thống dân tộc nên chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam vừa bắt nguồn từ truyền thống nhân văn của người Việt Nam từ cội nguồn văn học dân gian biểu hiện qua lối sống “ thương người như thể thương thân” trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Đặc biệt chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam chính là sự kế thừa và phát huy giá trị nhân văn trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Đó là tình yêu thương giữa con người với con người đặc biệt là những con người bất hạnh trong các truyện cổ tích như “ Sọ Dừa”, “Thạch Sanh”, “ Chử Đồng Tử”…..

Đồng thời, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam còn chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân văn tích cực vốn có của Phật giáo ( sự từ bi, bác ái), Nho giáo( là học thuyết nhân nghĩa, tư tưởng thân dân), Đạo giáo( là sống thuận theo tự nhiên, hòa hợp với tự nhiên).

* Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại rất phong phú , đa dạng:

- Trước hết, yêu nước là một phương diện quan trọng của cảm hứng nhân đạo: khi đất nước bị giặc ngoại xâm giày xéo, nhân dân bị lâm vào cảnh khốn cùng thì yêu nước gắn liền với tấm lòng thương dân.

-Tấm lòng cảm thông, xót thương của nhà văn trước nỗi thống khổ của con người.

- Thái độ lên án, tố cáo những thế lực tàn ác chà đạp lên vận mệnh con người.

- Trân trọng ngợi ca, thể hiện niềm tin vào vẻ đẹp của con người

- Đề cao khát vọng của con người về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, khát vọng về công lí, chính nghĩa.

- Đề cao những quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa con người với con người.

- Đưa ra những giải pháp giúp con người thoát khỏi những bi kịch, bế tắc.

Có thể thấy những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo nói trên qua các tác phẩm văn học Phật giáo thời Lí ( “ Cáo tật thị chúng”- của thiền sư Mãn Giác, “ Ngôn hoài”- thiền sư Không Lộ), qua các sáng tác của Nguyễn Trãi, sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm , sáng tác của Nguyễn Dữ. Cảm hứng nhân đạo đặc biệt nổi bật ở các tác phẩm thuộc giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa cuối thế kỉ XIX như: Chinh phụ ngâm khúc- Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm dịch, Cung oán ngâm khúc- Nguyễn Gia Thiều, Thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu…

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề bài :

Cảm hứng nhân đạo trong thơ thời trung đại.

Bài làm :

Văn học trung đại Việt Nam trải qua mười thế kỉ từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Đây là thời kì dân tộc ta đã thoát khỏi ách thống trị nặng nề của phong kiến phương Bắc hơn một ngàn năm. Nền văn học trung đại Việt Nam gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Về nội dung văn học thời kỳ này mang hai đặc điểm lớn đó là: Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo.


Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo thực ra không hoàn toàn tách biệt nhau. Bởi yêu nước cũng là phương diện cơ bản của nhân đạo.Tuy vậy cảm hứng nhân đạo cũng có những đặc điểm riêng. Nó bao gồm những nguyên tắc đạo lí làm người, những thái độ đối xử tốt lành trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, những khát vọng sống, khát vọng về hạnh phúc. Đó còn là tấm lòng cảm thương cho mọi kiếp người đau khổ,đặc biệt là với trẻ em, với phụ nữ và những người lương thiện bị hãm hại, những người hồng nhan mà bạc mệnh, những người tài hoa mà lận đận…

 Những nội dung nhân đạo đó đã được thể hiện ở trong toàn bộ văn học trung đại, những biểu hiện tập trung nhất là ở trong các tác phẩm văn học nửa sau thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX.

Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, đấu đá, tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống của người dân vô cùng khổ cực. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà đỉnh cao là khởi nghia Tây Sơn diệt Trịnh Nguyễn, đánh đuổi quân Xiêm, quân Thanh, thống nhất đất nước. Vua Quang Trung lên ngôi. Nguyễn Ánh không thể chống lại vua Quang Trung với hạm đội mạnh nhất Thái Bình Dương bèn cầu cứu thực dân Pháp. Cuối cùng Nguyễn Ánh có được sự trợ giúp của thực dân Pháp, đổi lại sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh phải để chúng buôn bán tự do tại cửa biển Sơn Trà - Đà Nẵng. Không lâu sau khi thành lập, triều đại Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh khôi phục lại vương triều phong kiến chuyên chế (1802-1945).
  Đây được xem là giai đoạn phát triển tột bậc, rực rỡ nhất của văn học phong kiến Việt Nam . Cảm hứng xuyên suốt thời kì này là cảm hứng nhân đạo. Bởi lúc này số phận và quyền sống của con người bị đe dọa. Văn học giai đoạn này là tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc, đấu tranh đòi giải phóng con người cá nhân. Các tác phẩm tiêu biểu:Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn; Đoàn Thị Điểm dịch), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều (Nguyễn Du)

Thời kì này có sự phát triển mạnh mẽ của những sáng tác văn học viết bằng chữ Nôm, và sự xuất hiện của nhiều thể loại văn học như tùy bút, tiểu thuyết chương hồi, kí...

Người đọc đến với văn học không chỉ để trau dồi kiến thức, thưởng thức thẩm mĩ mà còn vì nhu cầu hướng thiện. Giá trị nhân đạo của tác phẩm biểu hiện ở việc khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của con người,đồng cảm với những khát vọng nhân bản, phê phán sự nô dịch con người về tinh thần lẫn vật chất...Nội dung cảm hứng nhân đạo của văn học trung đại có ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng từ bi bác ái của đạo phật và học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho.

  Văn học do con người sáng tạo nên và tất yếu nó phải phục vụ trở lại cho con người. Vì vậy, tinh thần nhân đạo là một phẩm chất cần có để một tác phẩm trở thành bất tử đối với nhân loại. Ðiều này cũng có nghĩa là, trong xu hướng phát triển chung của văn học nhân loại, VHTÐVN vẫn hướng tới việc thể hiện những vấn đề của chủ nghĩa nhân đạo như:
- Khát vọng hòa bình
- Nhận thức ngày càng sâu sắc về nhân dân mà trước hết là đối với những tầng lớp thấp hèn trong xã hội phân chia giai cấp
- Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền sống của con người, chống lại ách thống trị của chế độ phong kiến.
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động
- Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh chống những thế lực phi nhân.

   Đây được xem là giai đoạn phát triển tột bậc, rực rỡ nhất của văn học phong kiến Việt Nam . Cảm hứng xuyên suốt thời kì này là cảm hứng nhân đạo. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại được thể hiện phong phú ,đa dạng:

 Lòng thương người

  Trong văn học trung đại Việt Nam khi viết về người phụ nữ, một mặt vẫn có sự kế thừa tư tưởng của văn học dân gian, song mặt khác, “Hồng nhan bạc phận” cũng được xem là tư tưởng chủ đạo của các tác giả.

  Nàng Vũ Nương hiếu thảo, đảm đang, chung thuỷ thì bị ngờ oan là ngoại tình, đến nỗi phải lấy cái chết để minh oan - mà khi chết đi rồi trong lòng vẫn mang nặng nỗi oan uổng đó (Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ).

   Người cung nữ xinh đẹp, tài hoa, khát khao hạnh phúc thì bị nhà vua bỏ rơi, sống cô đơn, mòn mỏi, lạnh lẽo nơi cung cấm, chôn vùi tuổi thanh xuân trong cung điện thâm u (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều).

  Người phụ nữ chỉ có một khát vọng rất bình thường là được chung sống cùng với người chồng thân yêu, song lại rơi vào cảnh đau đớn “tử biệt sinh li”, đằng đẵng chờ đợi không biết có ngày gặp lại. (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn).

   Nàng Kiều của Nguyễn Du xinh đẹp tài hoa là thế, nhưng lại bị dập vùi trong cảnh "Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần", liên tiếp bị đầy đọa cả về thể xác lẫn tinh thần để rồi phải thốt lên (thực tế là sự đầu hàng hoàn cảnh) rằng:

"Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!".

Đây không chỉ là bi kịch của riêng nàng Kiều, mà còn là bi kịch chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

   Mặt khác văn học trung đại Việt Nam , bước đầu đã phản ánh được quan niệm về con người cá nhân trong xã hội. Nhiều nhân vật nữ trong giai đoạn này cũng thể hiện sự phản kháng, sự tố cáo xã hội cũ, nêu lên nhiều suy nghĩ, nhiều quan điểm chống đối lại quan điểm của xã hội phong kiến (tiêu biểu hơn cả là thơ Hồ Xuân Hương).

  Đặc biệt văn học đã chú ý khám phá nội tâm nhân vật. Các tác giả (Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiêu, Đặng Trân Côn...) khi mô tả người phụ nữ, thường để cho nhân vật bộc bạch trực tiếp những nỗi đau khổ, những niềm riêng tư (sự tự ý thức về mình):

"Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

hoặc bộc lộ những phản ứng:


"Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung"...
(Hồ Xuân Hương).

 Có thể khẳng định rằng cảm giác mất mát hạnh phúc và nỗi khát khao hạnh phúc là hai tâm trạng, hai nỗi niềm thường gặp nhất ở các nhân vật nữ trong văn học trung đại Việt Nam .

Lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên con người

   Nguyễn Du đã mạnh dạn vượt ra khuôn khổ “văn dĩ tải đạo” để đề cao cái tôi, đề cao ý thức cá nhân con người. Truyện Kiều là một truyện thương thân, xót thân thấm thía nhất cũng bởi Nguyễn Du không ngần ngại đề cập đến nỗi đau, tâm trạng ê chề, khát khao hạnh phúc thực sự, ý thức về nhân cách của người phụ nữ chốn lầu xanh.
Ở một góc độ nào đó, đoạn trích là tiếng kêu cứu của những con người bị dìm xuống đáy xã hội. Nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là chú ý đến thân phận cá nhân. Lần đầu tiên trong văn học trung đại, người ta biết “xót thân”. Nguyễn Du là người đầu tiên tìm đến và chia sẻ tình cảm này, tạo nên một trào lưu nhân văn chủ nghĩa: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm… Cuộc phục hưng này của văn học dân tộc có điểm giống cuộc phục hưng của Văn học phương Tây thế kỉ 19: khám phá ra con người cá nhân, con người trần thế.

“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, biết đau khổ trước thân phận và thực tại, biết ê chề, bẽ bàng vì sự nhơ nhớp, biết thương lấy chính mình và biết khát khao tình yêu, hạnh phúc, khát khao giữ gìn nhân phẩm – đó là bi kịch, là nỗi đau của Kiều nhưng đồng thời cũng là vẻ đẹp đáng quí của nhân vật. Nếu không có những nỗi đau ấy, nhưng bi kịch tinh thần ấy, Kiều đã không phải là một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”, một nàng Kiều là hiện thân cho sự trinh tiết, cho cái đẹp trong sự ngưỡng vọng, trân trọng của Nguyễn Du.

 Khẳng định, đề cao con người

   Đoạn trích nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm là tiếng kêu thương của người phụ nữ chờ chồng, nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa. Tình cảnh lẻ loi đó được chiếu ứng trong sự cảm nhận về thời gian đợi chờ đằng đẵng, không gian trống vắng vây bủa bốn bề và cuộc sống hoá thành vô vị, mất hết sinh khí. Trên tất cả là tâm trạng cô đơn và sự ý thức về thảm trạng mất đi niềm tin, đánh mất niềm vui sống và mối liên hệ gắn bó với cuộc đời rộng lớn. Trạng thái tình cảm đó một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận và hệ quả tiếp theo là bao nhiêu số phận chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác xác nhận nhu cầu nói lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Không có gì khác hơn, đó chính là khả năng mở rộng diện đề tài, khai thác sâu sắc hơn thế giới tâm hồn con người, xác định nguồn cảm xúc tươi mới và khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong tiến trình phát triển chung của nền văn học dân tộc.

 Đề cao quan hệ đạo đức, lối sống tốt đẹp giữa người với người

  Nếu trong tình cảm tai biến của gia đình , Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha , đem lại sự yên ổn cho gia đình là một sự hy sinh ở nàng với tấm lòng hiếu thảo thì nổi đau khổ , ái ngại vì lời hẹn ước không tròn với Kim Trọng và trao duyên cho em là một biểu hiện của lòng vị tha , hi sinh rất đáng trọng , là tấm lòng chung thuỷ sắt son hiếm có trước sự bất lực của hoàn cảnh .

  Việc miêu tả cuộc sống ê chề, tủi nhục, với tâm trạng đau đớn xót xa của Thuý Kiều, con người tài hoa đã bị dập vùi trong cuộc đời ô nhục đáng thương. Nguyễn Du đã tố cáo cái xã hội phong kiến tàn bạo đã nhẫn tâm chà đạp cuộc sống của những con người lương thiện, bên cạnh đó tác giả còn cho thấy giữa cuộc đời bùn nhơ con người lương thiện vẫn giữ được đạo lý làm người. Phẩm chất đáng quí của Kiều: lòng hiếu thảo với cha mẹ và lòng chung thủy với người yêu. Ca ngợi ý thức sâu sắc của nàng về phẩm giá: nhân vật tự soi mình, tự đau khổ và giày vò chính mình.

Nhìn chung cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại chủ yếu được thể hiện qua những nét chủ yếu sau:  Trước hết đó là tiếng nói của tác giả, đó là tình cảm của tác giả dành cho những con người nhỏ bé chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội qua đó mà đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho họ, có được tình cảm như vậy, các tác giả thơ thời kì này mới viết được những dòng thơ, trang thơ xúc động đến như thế. Thơ trung đại còn thể hiện ở tiếng nói bênh vực giữa con người với con người, đề cao tình bạn, tình anh em, tình cha con, thể hiện mong muốn được sống trong hòa bình. Thơ trung đại đã thể hiện bước đi vững chắc của mình trong hơn mười thế kỉ, đó là sự tiếp nối bước đi của nền văn học dân gian. Tuy văn học dân gian thời kì này vẫn phát triển nhưng dấu ấn không còn như trước. Thơ trung đại đã thể hiện những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo qua đó mà làm tiền đề cho sự phát triển văn học các thời kì sau đó.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Bàn về giá trị nội dung của văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, có ý kiến cho rằng:

“Văn học giai đoạn này đã thể hiện những nỗi thống khổ và số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp người trong một xã hội đầy rối ren, li loạn. Nhiều tác phẩm đã lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, mơ ước tự do và ý thức về cá tính, nhiều lúc đã vượt ra ngoài khuôn phép của tư tưởng và lễ giáo phong kiến.”

Dựa vào những hiểu biết của mình về một số tác phẩm tiêu biểu của văn học giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Gợi ý :

I. Mở bài

- Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Cảm hứng nhân đạo trong văn học

- Nêu vấn đề và trích ý kiến

II. Thân bài

1. Khái quát chung

- Bối cảnh lịch sử của văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.

+ Đây là giai đoạn lịch sử dân tộc có nhiều báo táp, phức tạp: chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng, phong trào nông dân khởi nghĩa ở khắp nơi và đỉnh cao là phong trào nông dân Tây Sơn…Những sự kiện đó ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn học.

+ trước hiện thực đời sống như vậy,các nhà thơ, nhà văn đã cảm thông cho số phận con người, họ đã đứng trên lập trường nhân sinh để giải quyết các vấn đề xã hội. Đó là thái độ phê phán cái xấu, cái ác; bênh vực, cảm thông với những bất hạnh, đau khổ của con người…

-Tình hình văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.

Văn học có nhiều thành tựu và đạt đến những đỉnh cao nghệ thuật: Hoàng Lê nhấtthống chí (Ngô gia văn phái); Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ); Truyện Kiều

( Nguyễn Du); Chinh phụ ngâm ( Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm ); Cung oánngâm khúc ( Nguyễn Gia Thiều)…với các tác giả lớn như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm…

2. Chứng minh

a. Luận điểm 1: Văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đã thể hiện những nỗi thống khổ và số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp người trong xã hội rối ren,li loạn

- Phản ánh hiện thực là một thuộc tính của văn học. Xã hội có nhiều biến động lớn lao, số phận con người( đặc biệt là số phận của người phụ nữ) bị ảnh hưởng lớn nhất từ bối cảnh ấy.

- Từ những trang miêu tả hình ảnh người phụ nữ bị xã hội cũ dồn đẩy vào những tình huống oan trái, vọng lên cả tiếng lòng đau thương, đồng cảm của các tác giả:

+ Nguyễn Du hóa thân vào nàng Kiều để cùng đau buồn, cùng cất lên nỗi đau xé ruột với nàng của cuộc đời khổ ải mười năm năm lưu lạc:

“ Hết nạn nọ đến nạn kia,

Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”

+ Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm xót thương cho cảnh ngộ của người phụ nữ có chồng đi chiến trận luôn trong tâm trạng khắc khoải, đợi chờ, nhớ thương, vô vọng..

+ Hồ Xuân Hương mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước để giãi bày cuộc đời chìm nổi của người phụ nữ.

b. Luận điểm 2:Văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX là tiếng nói bênh vực cho quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, ước mơ tự do và ý thức về cá tính.

- Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

+ Nhân vật Thúy Kiều dù tài sắc vẹn toàn song không tránh khỏi sự hà khắc của cuộc đời. Dù cho cuộc đời Kiều trải qua 15 năm dâu bể nhưng Nguyễn Du luôn ngợi catams lòng vị tha, thủy chung, hiếu nghĩa và đức hi sinh cao cả của nàng trong suốt 15 năm ấy. Khát vọng hạnh phúc trong tình yêu vượt khỏi sự khắt khe của tư tưởng, lễ giáo đương thời.

+ Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải thành hình ảnh lí tưởng cho khát vọng tự do và công lí.

-Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói về nhân phẩm người phụ nữ, đồng thời thể hiện vấn đề về quyền sống với khát vọng bình đẳng.

+ Khẳng định cái “tôi” của người phụ nữ trước cuộc sống: Cái đẹp viên mãn, sắc đẹp trắng trong, nhân phẩm cao quý.

+ Dù cuộc đời ba chìm bảy nổi nhưng họ vẫn nguyên vẹn tấm lòng son

-Tác phẩm của Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm thể hiện qua “Chinh phụ ngâm khúc” : Đó là khát vọng hạnh phúc lứa đôi được thể hiện trong khung cảnh chia li và đặc biệt là tâm trạng mòn mỏi chờ chồng của người chinh phụ.

3. Đánh giá

- Các tác phẩm giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đã thể hiện những nỗi thống khổ và số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp người trong xã hội đầy rối ren, li loạn; lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, ước mơ tự do và ý thức về cá tính, nhiều lúc vượt ra ngoài khuôn phép của tư tưởng và lễ giáo phong kiến. Đây là những nội dung cốt lõi trong cảm hứng nhân đạo của văn học thời kì này.

- Muốn có được điều đó, cái gốc của nhà văn vẫn là tấm lòng. Vì thế trước hết nhà văn phải viết vì cuộc đời, vì con người, tức là phải là nhà nhân đạo chủ nghĩa.

III. Kết bài

-Khẳng định vấn đề : Tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong các sáng tác của các tác giả văn học giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX

- Thành công của văn học giai đoạn này.

4. Củng cố

- Những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam

5. Dặn dò

- Học bài cũ. Làm bài tập về nhà.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 21/09/2017

TIẾT 17-18.

KHÁI QUÁT CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng

- Biết phân tích những biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam, cụ thể là với văn học trung đại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng yêu thương con người, tình yêu văn học, tư duy tổng hợp, sáng tạo.

4. Định hướng phát triển năng lực HS

- Năng lực chung: Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực hợp tác.

- Năng lực riêng: cảm thụ thẩm mĩ, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

B. PHƯƠNG TIỆN

- GV: Giáo án, tài liệu tham khảo.

- HS: vở ghi.

C. PHƯƠNG PHÁP

GV chủ yếu dùng phương pháp đàm thoại, thực hành, giúp HS rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học.

D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề bài :

Về cảm hứng yêu nước của văn học Việt Nam thời Trung đại sách giáo khoa Ngữ Văn 10 có viết:

“ Điều đáng lưu ý là văn thơ nói đến những nội dung yêu nước đã không chỉ tồn  tại ở dạng quan niệm, tư tưởng đơn thuần mà quan trọng hơn là sự tồn tại ở dạng cảm xúc, cảm hứng, tâm huyết với đủ màu vẽ và cung bậc”.

Hãy chứng minh và phân tích 1 số tác phẩm để làm sáng tỏ.

 BÀI LÀM

Trong dòng chảy của nền văn học dân tộc, cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo tựa như hai mạch ngầm xuyên suốt, cuôn chảy qua bao chặng đường lịch sử. Đặc biệt trong thời kì văn học Trung đai trước nhiều biến cố lịch sử lòng yêu nước ấy lại hừng hực cháy trong tâm hồn các thi nhân để rồi tuôn trào nơi đầu bút lực những nỗi lòng,tâm sự ngân lên như những nốt nhạc trầm bổng trong 1 bản đàn. Có lẽ chăng xuất phát từ đó mà sách giáo khoa Ngữ văn 10 đã cho rằng:

“ Điều đáng lưu ý là văn thơ nói đến những nội dung yêu nước đã không chỉ tồn tại ở dạng quan niệm, tư tưởng đơn thuần mà quan trọng hơn là sự tồn tại ở dạng cảm xúc, cảm hứng, tâm huyết với đủ màu vẽ và cung bậc”.

Thế nào là cảm hứng yêu nước? Nói đến cảm hứng yêu nước là nói đến nội dung tình cảm trong mỗi tác phẩm tình văn học. Cảm hứng yêu nước được bộc lộ qua thơ bằng muôn hình vạn trạng. Đó là tình yêu quê hương, đất nước, yêu cảnh sắc thiên nhiên, xứ sở. Đó là ý chí chống xâm lăng vì khát vọng ấm no, hạnh phúc, được sống trong tự do, độc lập, hòa bình bền vững. Đó là niềm tự hào về truyền thống lịch sử, truyền thống văn hiến Việt Nam lâu đời, giàu bản sắc. Đó còn là ý thức tự lập, tự cường, xây dựng và bảo vệ đất nước muôn đời giàu đẹp.

Bước vào kỉ nguyên xây dựng quốc gia phong kiến độc lập sau hàng nghìn năm đô hộ, biểu hiện trước hết của tư tưởng yêu nước là ý thức tự cường, tự tôn dân tộc, ý thức về chủ quyền độc lập. Đó là lời thơ hào sảng trong “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt:

“Sông núi nước nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời”.

Chủ quyền độc lập thiêng liêng bất khả xâm phạm được khẳng định qua những câu thơ chắc nịch, giọng thơ đanh thép, hùng hồn. Đó là một “bài thơ thần”, xứng đáng là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước Đại Việt.

Đến bài “Cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi- bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, chân lí lịch sử ấy nâng lên ở một tầm cao mới với cái nhìn toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Từ việc dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền độc lập ở bài “Nam quốc sơn hà” thì bài “Cáo bình Ngô” đã tiếp nối và phát triển lên thành chân lí muôn đời: Đại Việt là đất nước có nền văn hiến lâu đời, có biên giới riêng, có phong tục tập quán riêng, có quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang và cùng tồn tại với các vương triều phong kiến phương Bắc. Sự phát triển ấy về khái niệm quốc gia dân tộc được thể hiện rõ nét qua tư tưởng lấy dân làm gốc, tập hợp sức mạnh của nhân dân để xây dựng lực lượng nòng cốt, tạo dựng sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.

Với ý thức sâu sắc như vậy về quốc gia, dân tộc, khi tổ quốc bị xâm lăng, yêu nước là căm thù giặc sục sôi, là tinh thần quyết chiến quyết thắng để bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc, là đoàn kết toàn dân “Tướng sĩ một lòng phụ tử”, bền gan chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn.

Yêu nước không chỉ dừng lại ở đó, mà khi đất nước thanh bình, nội dung của tư tưởng yêu nước thể hiện ở khát vọng xây dựng đất nước hòa bình và hạnh phúc lâu bền:

“Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy ngàn thu”.

Hai câu thơ thể hiện cho ước mơ, niềm tin vô hạn của tác giả và cũng là ước mơ ngàn đời của nhân dân về một đất nước thái bình, thịnh trị, trường tồn đến muôn đời. Đó là hào khí sục sôi, vang dội của một đời, của một thời, sáng ngời cả hồn thiêng sông núi, âm vang đến muôn đời.

Nhưng sức sống lâu bền của một tác phẩm văn chương khồn chỉ ở chỗ là chứa đựng nội dung tư tưởng đơn thuần mà điều cốt yếu hơn, quan trọng hơn là những nội dung, tư tưởng tồn tại ở dạng cảm xúc, cảm hứng, tâm huyết với đủ màu vẽ và cung bậc. Với những hoàn cảnh khác nhau, những cảnh ngộ khác nhau, cá tính sáng tạo khác nhau cảm hứng yêu nước được thể hiẹn dưới nhiều dọng điệu khác nhau. Mỗi tác phẩm là một nốt nhạc, có nốt trầm, có nốt bổng hòa quyện làm nên một bản anh hùng ca bất diệt, ca lên đến muôn đời âm vang của thời đại.

Đó là giọng điệu dõng dạc, hào sảng động vọng trong không gian với khí thế ngùn ngụt, hình ảnh thơ tráng lệ, kì vĩ trong bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt:

“Sông núi nước nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời”.

Là giọng thơ đĩnh đạc, lời văn rắn rỏi, chắc nịch như khắc, như tạc qua bài “Cáo bình Ngô”:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.

Những tình cảm nồng cháy như được khơi dậy qua từng câu, từng chữ, từng lời thơ, ánh lên trong tâm hồn mỗi người một niềm tự hào mãnh liệt về dáng đứng oai hùng của dân tộc trong lịch sử.

Ta như hừng hực bầu máu nóng trong những lời nói gan ruột của Trần Quốc Tuấn trong “Hịch tướng sĩ” : “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu trăm thây phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”. Đó là nỗi đau đớn, xót xa đến xé lòng của vị tướng sĩ hét mực yêu nước. Để rồi từ khí thế xung thiên ấy ta như nghe vang vọng tiếng đồng thanh: “Quyết đánh!” của các bô lão trong Hội nghị Diên Hồng, như thấy rực cháy ánh lửa quân sĩ tướng tá sáng bừng dưới ánh trăng mài gươm giáo để xung trận, thích lên cánh tay hai chữ “Sát thát” với một ý chí kiên định. Tinh thần, ý chí sắt đá, kiên định ấy đã làm nên chiến thắng quân Mông- Nguyên vang dội núi sông trong lịch sử.

Nỗi căm thù, uất hận vút lên thành lời, thành những bản cáo trạng đanh thép: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con nhỏ xuống dưới ầm tai vạ”, trở thành tiếng thét vang dội, thành lời thề quyết chiến:

“Ngẫm thù lớn hà đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống”.

Ta như thấy hiện lên trước mắy không gian hào hùng, khí thế, chiến công nối tiếp chiến công làm nên một bản tráng ca ngân lên cao vút, dài vô tận khi đọc những vần thơ hả hê của Nguyễn Trãi trong “Cáo bình Ngô”:

“Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông

Cơn gió to trút sạch lá khô

Tổ kiến hỏng sụt toang đê vỡ…”

Giọng thơ cuồn cuộn như triều dâng thác đổ,. Niềm tự hào, kiêu hãnh, niềm vui sướng bất tận, hả hê tạo ra nhạc điệu bay bổng dồn dập, âm thanh giòn giã nối đuôi nhau mạnh mẽ như có gươm đao loảng xoảng trong một trận tuyến vang trời.

Nội dung yêu nước trong văn học trung đại được thể hiện bằng những cảm xác, giọng điệu đa dạng, không chỉ là lòng căm thù giặc sục sôi, tinh thần quyết chiến quyết thắng hừng hực, như một nét vẽ tinh tế mà sâu sắc về lòng yêu nước sự hổ thẹn trong bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão cũng là một cách tỏ bày độc đáo:

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.

“Thẹn” vì chưa trả hết nợ công danh, lập công báo quốc; thẹn vì chưa có được tài năng như Gia Cat Lượng để phò vua giúp dân. Nỗi “thẹn” ấy là biểu hiện cao đẹp cho lí tưởng sống, hoài bão sống lớn lao của người con trai đời Trần làm sáng bừng lên hào khí Đông A một thời.

Đó còn là nỗi niềm hoài vọng về quá khứ đã qua trước di tích vẫn còn để rồi tiếc ngậm ngùi trong lòng một niềm tiếc nuối:

“Đến nay sông nước tuy chảy hoài, mà nhục quân thù khôn rửa nổi”.

Là sự suy ngẫm về lẽ tồn vong của muôn đời, sự thành bại của sự nghiệp cũng ngân lên giọng điệu hùng tráng:

“Giặc tan muôn thuở thái bình

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.

Và khi đất nước trở về thái bình, thịnh trị lòng yêu nước ấy lại hóa thân vào sông núi, một cành hoa, một cây cỏ, một cánh chim trời chao liệng:

“Nước biếc, non xanh, thuyền gối bãi

Đêm thanh nguyệt hạc, khách bên lầu”.

Trong cảnh nước mất nhà tan, nỗi đau đời, uất hận khi vận nước đổi thay dồn lại, nén chạt tạo nên giọng điệu trầm uất, bi tráng. Bài thơ “Cảm hoài” nổi tiếng của Đặng Dung với hai câu kết:

“Thù nước chưa xong đầu đã bạc

Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày”.

Đặng Dung đã kí thác cho đời thăm thẳm một nỗi đau đời, một niềm bi phẫn, trầm uất, đắng cay, xót xa vì người anh hùng sinh lầm thế kỉ. Hình ảnh một dũng tướng mái đầu đã bạc mải miết mài gươm dưới ánh trăng khơi gợi biết bao cảm xúc liên tưởng, chẳng khác nào “con ngựa già còn ham rong ruổi’. cái ánh sáng lóe lên trong câu thơ thần là ánh sáng vằng vặc của bóng trăng khuya giữa bầu trời mênh mông, bát ngát, cũng là ánh sáng lưỡi gươm chính khí chưa cất lên được để tiêu diệt kẻ thù, cũng là ánh sáng của tấm lòng yêu nước trung trinh của nhà thơ. Lời đã hết, bài thơ đã khép lời mà cảm xúc thơ vẫn lai láng, bồi hồi, xúc động. Đó là bài thơ có giọng điệu bi tráng bậc nhất trong thơ ca Việt Nam thời Trung đại- tiếng lòng của một dũng tướng chiến bại.

Sống trong những triều đại khác nhau, chịu sự chi phối khác nhau của lịch sử, đồng thời mỗi người với một tâm tính, một cá tính sáng tạo đã làm nên những cảm hứng riêng về cảm hứng yêu nước. Có nỗi buồn, có niềm vui, niềm say mê hứng khởi, có giận thương, có buồn tủi, có bâng khuâng hổ thẹn, có rạo rực hả hê…Nguồn cảm hứng vô tận được thể hiện bằng nhiều cách nói, nhiều giọng điệu riêng. Có giọng điệu hùng tráng ở nhiều cấp độ, hình thái khác nhau. Có giọng điệu bi tráng, phẫn uất thành tiếng than, lời gọi. Có giọng điệu nhẹ nhàng, say sưa trước cảnh sắc thiên nhiên, đất nước… Tất cả tạo nên sự đa thanh, đa sắc, thể hiện sâu sắc, phong phú nội dung tư tưởng yêu nước- một vẻ đẹp rực rỡ của tâm hồn dân tộc.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Nhận xét về Truyện Kiều , Mộng Liên Đường chủ nhân nói :

Tố Như dụng tâm đã khổ , tự sự đã khéo , tả cảnh đã hệt , đàm tình đã thiết , nếu không phải con mắt trông thấu sáu cõi , tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không tài nào có được bút lực ấy .

Anh /chị hãy bình luận ý kiến trên .

Dàn ý :

1.Giải thích

-Lời bàn của Mộng Liên Đường đã nêu được một cách khái quát nhất tài năng sáng tạo của Nguyễn Du cũng toàn bộ giá trị của tác phẩm Truyện Kiều . Truyện Kiều –có thể coi là “đất dụng võ” của ND . Người ta có thể bắt gặp trong Truyện Kiều cả sự “dụng công đã khổ” , đó là sự công phu , tâm huyết của Nguyễn Du , “tự sự đã khéo , tả cảnh đã hệt , đàm tình đã thiết” là tài năng nghệ thuật ở mọi phương diện đều đạt đến độ xuất sắc. Và hiển hiện trong mỗi lời văn câu chữ là “con mắt trông thấu sáu cõi , tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” , đó là cách nhìn có tầm bao quát rộng lớn , mang tầm tư tưởng triết học . Và một khi đã có con mắt ấy thì sẽ có tấm lòng lưu luyến , lo lắng , đầy yêu thương không chỉ dừng lại ở một lớp người , một thời đại mà trải muôn người , ở muôn đời .

-Lời bàn của Mông Liên Đường là lời khẳng định hùng hồn nhất và cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho tài năng bậc thầy của một thiên tài văn học –Nguyễn Du .

2.Chứng minh  

 a.”Tố Như dụng tâm đã khổ

-Nói đến TK là phải nói đến quá trình khổ công rèn luyện , gọt giũa ngòi bút để cho ra đời một áng văn chương tuyệt tác của nhân loại . Nhưng ý kiến của Mộng Liên Đường đề cập đến nỗi khổ của Nguyễn Du ở đây là “dụng tâm” , tức là làm thế nào để đưa chữ “tâm” vào tác phẩm của mình , đưa tấm lòng mình vào những dòng thơ . Bởi vì , hơn ai hết , Nguyễn Du rất coi trọng chữ tài nhưng cũng hết mực ca ngợi chữ tâm . ND đã khẳng định :

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài .

-Chính vì vậy , chữ tâm của ông dào dạt trên những trang giấy . Có lẽ vì vậy mà trong Truyện Kiều chữ “lòng” xuất hiện với một số lượng lớn :

+Đó là nỗi cảm thương của Kiều trước mộ Đạm Tiên:

Lòng đâu sẵn mối thương tâm

+Đó cũng là cái tình Kiều đem ra đền đáp Kim Trọng :

Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng”

                                         “Để lòng thì phụ tấm lòng với ai

+Nhưng cũng có những tiếng lòng khiến người ta mỉa mai , ghê tởm . Đó là tiếng lòng thốt ra từ bọn buôn thịt bán người , từ những Tú Bà , Sở Khanh . Chúng thốt ra những lời ngon ngọt nhưng lại giương vuốt nhe răng làm hại bao người :

“Phải điều lòng lại rối lòng mà thôi”

                                           “Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng

àNguyễn Du đặt tiếng lòng vào miệng những bậc tài hoa như Kim Trọng , Thúy Kiều nhưng cũng để nó thốt ra từ những kẻ xấu xa , nham hiểm như Tú Bà , Sở Khanh. Đó là dụng ý nghệ thuật của ông khi muốn lột tả sắc thái biểu cảm của chữ tâm . Chữ tâm trong sáng biểu hiện cho tấm lòng lương thiện cao cả của con người nhưng cũng có khi chữ tâm bị bôi bẩn , nhơ nhuốc trong tay bọn vô lại .

-Có thể nói Truyện Kiều là tiểu thuyết của chữ tâm . Thúy Kiều chinh phục được người đọc không chỉ bởi “Sắc đành đòi một , tài đành họa hai” mà còn bởi chữ tâm sáng chói nơi nàng . Đó là tấm lòng trinh bạch , là nghĩaa khí , là sự khoan dung của nàng . Chữ tâm trải suốt cuộc đời nàng . Vì chữ tâm mà Kiều khóc thương Đạm Tiên , vì chữ tâm mà bán mình chuộc cha , trả nghĩa cho Kim Trọng . Vì chữ tâm mà Kiều tha bổng Hoạn Thư , khuyên Từ Hải ra hàng và cuối cùng vì chữ tâm mà Kiều tìm đến cái chết trên sông Tiền Đường . Hình tượng Thúy Kiều đã đi vào lòng người đọc với một cái tâm như thế .

-Ở những nhà văn chân chính xưa nay , tâm bao giờ cũng là cái gốc . Tài và trí chỉ là cành , là ngọn . Người nghệ sĩ phải vui niềm vui của con người , đau cùng nỗi đau của con người , phải khóc , phải cười , phải trăn trở cùng con người . Soi vào Truyện Kiều, ta nhận ra  tác phẩm thực chất là tiếng lòng của Nguyễn Du . Mỗi một lời , một chữ , một câu trên trang giấy là sự hòa quyện giữa tâm hồn nhà văn với tâm hồn nhân vật . Nguyễn Du dõi theo bước chân của nàng Kiều trên từng chặng đường đời của nàng :

+Khi Kiều ở lầu xanh , ông đau cùng nàng :

Khi tỉnh rượu… xót xa

+Khi Kiều gặp Từ Hải , ông vui mừng , hân hoan trước hạnh phúc của nàng :

                                             Trai anh hùng , gái thuyền quyên

                                           Phỉ nguyền sánh phượng , đẹp duyên cưỡi rồng

+Và chính ông là người thốt lên tiếng kêu đau đớn khi Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử :

                                             Thương thay cũng một kiếp người

                                        Hại thay mang lấy sác tài mà chi !

àCó thể nói Nguyễn Du đã hóa thân vào nhân vật , vui buồn cùng nhân vật . Đó chính là tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du .

  b.Tự sự đã khéo , tả cảnh đã hệt , đàm tình đã thiết là tài năng nghệ thuật ở mọi phương diện đều đạt đến độ xuất sắc

-“Tự sự đã khéo”: ở đây tác giả muốn đề cập đến nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của nguyễn Du .

+Cái khéo của Nguyễn Du là sự biến hóa linh hoạt cách kể , cách dẫn dắt câu chuyện ( so sánh với Kim Vân Kiều truyện là một cuốn tiểu thuyết chương hồi , Truyện Kiều của ND là một cuốn truyện thơ) . Vì là truyện thơ Việt Nam nên TK đậm bản sắc dân gian . Đặc biệt , TK đã đưa thể thơ lục bát dân tộc lên tới đỉnh cao . Thể thơ của ND vừa gần gũi , vừa dễ đọc, dễ thuộc , dẫn dắt người đọc vào câu chuyện một cách tự nhiên .Chính vì vậy , bức tranh toàn cảnh về đời sống xã hội , con người trong tác phẩm hiện lên vô cùng chân thực và sống động .

+Truyện Kiều là một câu chuyện xuyên suốt với tình tiết nọ tiếp nối tình tiết kiado sự kết nối các tình tiết chặt chẽ và lô gích , từ đó người đọc có thể rút ra quy luật về số phận nhân vật

+Truyện Kiều còn có sự kế thừa Kim Vân Kiều truyện một cách sáng tạo :

  • Trong KVKT không có cuộc chia tay cảm động giữa Thúc Sinh và Kiều thì trong TK , đoạn Thúc sinh từ biệt TK lại là một trong những đoạn chia li hay nhất của thơ ca về sự chia li từ xưa đến nay , được Vũ Trinh đánh giá “ngang với một thiên phú biệt li
  • Trong KVKT miêu tả việc Từ Hải trở về với hình dung của một toán giặc cỏ , chân dung một kẻ cướp đã làm giảm giá trị thẩm mĩ của hình tượng nhân vật thì trong TK , hình ảnh của đạo quân của Từ Hải lại hiện lên :

Ngất trời sát khí mơ màng

                                   Đầy sông kình ngạc , chật đường giáp binh

àhiện lên cái khí thế mạnh mẽ , sục sôi của đoàn quân chiến thắng trở về với cái khả năng làm khuynh đảo cả đất trời . Người đọc như bị cuốn vào cái khí thế hào hùng , sục sôi đó .

-“Tả cảnh đã hệt”là sự chính xác , đúng đắn , phù hợp , lô gic trong tả cảnh của Nguyễn Du .

+Ông đã phát hiện cái hồn của cảnh vật và đưa vào trong thơ một cách tinh tế nhất: Nguyễn Du có biệt tài tả mùa với ngôn ngữ có tính cá thể hóa cao độ , mỗi mùa một khác :

  • Mùa hè : Dưới trăng quyên đã gọi hè

                            Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông .

  • Mùa thu :  Long lanh …bóng vàng
  • Mùa xuân : Cỏ non …bông hoa

+Cảnh không chỉ đẹp mà cảnh còn phù hợp với tâm trạng con người :

  • Đôi trai gái “Người quốc sắc , kẻ thiên tài” vừa gặp nhau đã say mê và khi chia tay thì lòng đầy lưu luyến :

Dưới cầu nước chảy trong veo

                               Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha

  • Khi con người cô độc , sống trong tâm trạng cô đơn thì thiên nhiên cũng mang đầy tâm trạng :

Buồn trông cửa bể chiều hôm

…Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Thiên nhiên như thấm đẫm nỗi buồn nhớ , sự lo lắng , phấp phỏng của Kiều về những ngày sắp tới à dự báo về một cuộc đời chìm nổi , một tương lai vô định đầy hiểm nguy , bất trắc ?

=>”Cái hệt” của ND không chỉ dừng lại ở độ chính xác , đúng đắn mà đạt tới trình độ tinh vi , sâu sắc , giàu giá trị thẩm mĩ .

-“Đàm tình đã thiết”: đó là nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nổi bật trong tác phẩm .Ngòi bút của ND tinh vi , lão luyện trong việc phân tích tâm lí nhân vật .Tâm trạng của mỗi nhân vật được xây dựng đều phù hợp với hoàn cảnh

+Trong tác phẩm , Kiều là nhân vật có tâm trạng phức tạp nhất :

  • Tâm trạng bất lực , uất ức khi bị đem ra làm món hàng mua bán

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

                              Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng

                                     Ngại ngùng dín gió e sương

                              Ngừng hoa bóng thẹn , trông gương mặt dày .

  • Khi Kiều trao duyên cho em để trả nghĩa cho Kim Trọng , ta mới thấy hết cái tình sâu nặng :

Phận sao phận bạc như vôi

…Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

  • Những đau thương , uất ức dồn lại đã trở thành nỗi căm phẫn trong Kiều :

Đã cho lấy chữ hồng nhan

…Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi

Điệp từ “cho” lặp lại nhiều lần như sự đay nghiến , day dứt , khắc khoải khôn nguôi về nỗi đau thân phận . Câu thơ chất chứa niềm bức bối , bực dọc như muốn bùng ra . Trong thơ bật ra tiếng hét phẫn nộ , tiếng tố cáo gay gắt những ngang trái cuộc đời chà đạp lên số phận người phụ nữ .

+Trong Truyện Kiều lúc nào cũng hiển hiện một chữ tình sâu nặng . Cái tình trong TK là cái tình sâu , tình thắm , cái tình đẹp nhất của loài người bởi nó chở theo giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả . Trước mỗi cảnh đời của nhân vật ta đều bắt gặp sự đồng cảm , thương xót của nhà thơ .

  c.Thành công của TK còn ở chỗ “Con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời

-“Sáu cõi” là sự bao chiếm là sự bao chiếm toàn bộ không gian đông-tây-nam-bắc , trên và dưới. Đó là sự thâu tóm cả vũ trụ , đất trời . Trong TK có không ít những thơ chứa đựng cả thiên nhiên vũ trụ :

                                       -Bốn bề bát ngát xa trông

                                  Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

                                     -Trời cao sông rộng một màu bao la .

-“Con mắt trông thấu sáu cõi” cũng là một biểu hiện của một nhân sinh quan nhạy cảm , một tâm hồn rộng mở thu nhận mọi biến chuyển cuộc đời .Chính bởi thế mà ông rút ra được những quy luật của cuộc đời :

Trăm năm trong cõi người ta 

                                           Chữ tài ………………………………………ghét nhau

                                             -Ngẫm hay muôn sự tại trời

                                           Trời kia đã bắt làm người có thân

                                          …Cho thanh cao mới được phần thanh cao .

Bằng con mắt “Trông thấu sáu cõi” , Nguyễn Du đã thể hiện một vốn sống phong phú , uyên thâm , hiểu đời và hiểu người . Ông nghe nhiều, quan sát nhiều để đúc rút lại những chân lí của cuộc sống .

Mắt ND nhìn thấu sáu cõi mà lòng thì “nghĩ suốt cả đời” .

+Đó là tấm lòng canh cánh lo cho số phận con người , lo cho cuộc đời . Ông đã nói hộ những người phụ nữ những bất công , đau khổ :

Đau đớn thay …lời chung

3.Bình luận

-Lời nhận định của Mộng Liên Đường đã khái quát được một cách chung nhất những giá trị của TK trên cả hai lĩnh vực nội dung và nghệ thuật vì “Tố Như dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo , tả cảnh đã hệt , đàm tình đã thiết”.Nhưng xét đến cùng bút lực ấy có được cũng là nhờ “con mắt trông thấu sáu cõi , tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. Nguyễn Du là một nghệ sĩ chân chính

-Lời bàn của Mộng Liên Đường cho thấy ông không chỉ là một người am hiểu , học rộng , hiểu sâu về văn chương mà ông còn xứng đáng là một tri kỉ của ND khi khám phá được cái thần tuyệt diệu của tài năng nghệ thuật Nguyễn Du , đồng điệu với tâm hồn , nỗi niềm của Nguyễn Du .

4. Củng cố

- Những biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước trong văn học Việt Nam.

- Những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam.

5. Dặn dò

- Học bài cũ. Làm bài tập về nhà.

- Chuẩn bị bài : Văn học dân gian với việc bồi đắp tâm hồn con người

Ngày soạn : 28/09/2017

TIẾT 19-20.

VĂN HỌC DÂN GIAN VỚI VIỆC BỒI ĐẮP TÂM HỒN CON NGƯỜI

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết phân tích những giá trị cơ bản của văn học dân gian đối với tâm hồn con người Việt Nam thông qua những văn bản cụ thể.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Hiểu được những giá trị to lớn của VHDG, có thái độ trân trọng đối với di sản văn hóa tinh thần của dân tộc.

- Học tập tốt hơn phần VHDG trong chương trình.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-PHƯƠNG TIỆN

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở ghi, tài liệu tham khảo

C. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới

I. ÔN TẬP LÍ THUYẾT

1. Định nghĩa
VHDG là loại hình nghệ thuật ngôn từ phát triển trong đời sống của nhân dân theo phương thức truyền miệng và tập thể, bao gồm những sáng tác sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện để xây dựng hình tượng nghệ thuật nhằm biểu đạt tư tưởng, tình cảm, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm của nhân dân ta về tự nhiên, xã hội và con người.

VHDG được coi là cuốn “Bách khoa toàn thư” của các dân tộc, là “khuôn vàng thước ngọc” cho văn học viết, là “dòng suối mát ngọt lành” cho mỗi người khi thưởng thức. Những điều đó chứng tỏ VHDG có những giá trị vô cùng to lớn, mang nhiều chức năng quan trọng trong việc phản ánh và phục vụ đời sống con người.

2. Giá trị của VHDG trong việc bồi đắp tâm hồn con người
2.1. Giá trị nhận thức
Văn học dân gian cung cấp cho các em những hiểu biết ban đầu về các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, trong đời sống xã hội và con người, gắn với những thời kỳ lịch sử ở từng vùng, miền khác nhau của đất nước. Đó là kho tri thức vô cùng phong phú giúp mở rộng nhận thức, phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho các em. Chẳng hạn, truyện Sơn Tinh Thủy Tinh vừa giúp trẻ hiểu biết về một hiện tượng thiên văn khí tượng (chu kỳ lũ lụt), vừa có ý nghĩa dân tộc học (tục kén rể và thách cưới), tâm lý học (sự ghen tuông, trả thù), vừa là bài học quý báu về đạo lý (tinh thần dũng cảm, nhân hậu) vừa là bản hùng ca của khát vọng chinh phục thiên nhiên.
Kho tri thức mà văn học dân gian đưa lại cho các em bao quát mọi lĩnh vực của đời sống nhân dân, phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời được đúc kết từ thực tiễn và được chuyển tải bằng ngôn ngữ nghệ thuật chân thực mà hấp dẫn, vì thế dễ nghe, dễ phổ biến, có sức sống lâu bền với thời gian.

Mỗi thể loại của VHDG đều có khả năng phản ánh, thể hiện cuộc sống lao động cũng như đời sống tâm tư tình cảm của con người. Qua VHDG, ta thấy cả một thế giới đa dạng và vô cùng phong phú những bức tranh hiện thực sinh động. Từ việc lí giải nguồn gốc hình thành của trời và người, quy luật tạo hóa, nguồn gốc của sự sống đến những bài ca chiến trận hào hùng của những trang tù trưởng hùng mạnh; từ lịch sử sơ khai của dân tộc về nguồn gốc tổ tiên, dòng máu Lạc Hồng chảy trong huyết quản mỗi người đến những vần thơ dân gian kêu gọi tinh thần đoàn kết; từ những câu tục ngữ đúc kết những kinh nghiệm sống quý giá đến những câu chuyện cổ tích nói lên triết lí sống của nhân dân… tất cả đều cung cấp cho chúng ta những tri thức về đời sống của 54 dân tộc trên đất nước, hướng chúng ta đến những sự thật, những chân lí trong thực tiễn.
2.2. Giá trị giáo dục
Trong xã hội Việt Nam thời xưa, trẻ em được nuôi dưỡng tâm hồn và lớn lên từ những lời ru, những câu chuyện kể của bà, của mẹ. Những lời ru, câu chuyện ấy đã giúp các em nhận thức sâu sắc về cuộc đời, bồi đắp cho các em những tình cảm trong sáng biết yêu cái thiện, cái tốt, ghét cái ác cái xấu, biết trân trọng lẽ công bằng. Đó là những bài học bổ ích góp phần hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp của các em.
Nội dung giáo dục của văn học dân gian rất sâu sắc và toàn diện. Nó giáo dục các em tinh thần nhân đạo và lạc quan. Đó là tình yêu thương đồng loại, đó là tinh thần đấu tranh để bảo vệ và giải phóng con người khỏi bất công, là niềm tin bất diệt về chiến thắng của chính nghĩa và cái thiện. Văn học dân gian còn góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, đức kiên trung và vị tha, tính cần kiệm và óc thực tiễn.

VHDG giáo dục con người sống đúng tư cách phẩm chất người (người ta hoa đất), sống có tình có nghĩa trong cộng đồng, biết vươn lên dù khó khăn gian khổ.

VHDG bồi đắp cho tâm hồn mỗi người những tình cảm đạo đức tốt đẹp, hướng con người đến điều thiện, thắp lên hi vọng, bồi dưỡng niềm tin vào cuộc sống.
2.3. Giá trị thẩm mỹ
Nhiều phạm trù thẩm mĩ khác nhau: cái đẹp - cái xấu; cái bi- cái hài; sự cao cả - cái thấp hèn…đều được thể hiện qua nội dung tác phẩm cùng hệ thống hình tượng nhân vật muôn màu muôn vẻ. Tác phẩm VHDG giúp hình thành, phát triển cảm xúc thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ cho các em, giúp chúng cảm nhận được cái đẹp trong thiên nhiên, trong cuộc sống, trong nghệ thuật, từ đó biết yêu quí, trân trọng cái đẹp, hướng tới cái đẹp, hành động vì cái đẹp, hành động sang tạo thẩm mĩ...

Không chỉ sâu sắc ở nội dung tư tưởng, VHDG còn là những tác phẩm nghệ thuật mà ngôn từ, hình tượng đã được trau chuốt, gọt giũa qua thời gian, như viên ngọc càng mài càng sáng.

“… có những lời ca hay đến mức không thể bình phẩm mà chỉ có thể cảm nhận khi đọc nó” (Hoài Thanh). Ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, VHDG đều hướng con người đến cái cao cả, cái đẹp.

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề bài :

Tinh thần nhân văn qua một số truyện cổ dân gian Việt Nam ( thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện thơ, cổ tích, truyện cười )

Hướng dẫn làm bài :

1. Nhân văn là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại

1.1. Khái niệm “nhân văn” và tính nhân văn trong văn học

Nhắc đến khái niệm “nhân văn” chúng ta không thể không quan tâm đến những thuật ngữ gần

nghĩa có liên quan mật thiết là “nhân bản” và “nhân đạo”, sự phân biệt những khái niệm đó giúp ta hiểu rõ hơn bản chất vấn đề.

“Nhân bản” : là lấy con người làm gốc. “Chủ nghĩa nhân bản” là chủ nghĩa coi trọng con người

với thực thể hiện hữu của nó - sự sống còn và bản chất người( bao gồm cả bản năng vốn có và những giá trị khác). Do đó, nói tới giá trị nhân bản là nhấn mạnh đến khía cạnh bản thể của con người.

“Nhân đạo” là đường đi của con người. Con đường đó còn gọi là đạo lí. Đó là đạo lí phải tôn

trọng quyền lợi chính đáng của con người, không được xâm phạm đến sinh mệnh, thân thể, sự tự do về tư tưởng, tình cảm của con người. “Chủ nghĩa nhân đạo” đòi hỏi sự thường yêu, quý trọng và bảo vệ con người, thuật ngữ này nhấn mạng đến khía cạnh đạo đức.

Thuật ngữ “Nhân văn” cần được hiểu theo ý nghĩa của từng từ tố : “Nhân” là người, ý nói

mang các đặc trưng con người, bản chất con người, “văn” là vẻ đẹp văn hóa, văn minh. “Nhân văn” có thể hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con người.

Một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm văn học thể hiện con người với những nét

đẹp của nó đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm hồn tình cảm, phẩm cách… Tác phẩm đó hướng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người.

1.2. Nhân văn là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại. Văn học lấy con người làm trung tâm của đối tượng phản ánh, văn học luôn có ý thức khám phá, phát hiện những vẻ đẹp muôn mặt của con người trong cuộc sống nên “văn học là nhân học”. Vì lẽ đó, việc phản ánh cuộc sống con người, hướng tới con người đã trở thành thước đo giá trị văn học của mọi thời đại. Từ văn học dân gian đến văn học viết, từ văn học trung đại đến văn học hiện đại đều lấy tinh thần nhân văn làm cảm hứng sáng tác. Việc hướng tới con người, khẳng định ca ngợi những nét đẹp của con người đã làm nên giá trị của biết bao nhưng tác phẩm văn học, giúp cho tên tuổi của các nhà văn, nhà thơ sống mãi với thời gian

Tinh thần nhân văn trong thơ thời Lí thể hiện ở việc thơ ca đã phát hiện ra vẻ đẹp minh triết

của trí tuệ con người : vẻ đẹp của sự điềm tĩnh và thông tuệ của nhà cầm quyền trị nước (Quốc Tộ - Pháp Thuận), vẻ đẹp an nhiên tự tại của con người khi hiểu rõ quy luật tự nhiên và sống hòa nhịp cùng quy luật (Cáo tật thị chúng- Mãn giác thiền sư) ; vẻ đẹp của tinh thần tự do…

Tinh thần nhân văn trong thơ thời Trần lại gắn với vẻ đẹp mẫn cảm của tâm linh. Thơ ca thể

hiện vẻ đẹp tâm hồn phong phú, dạt dào rung cảm trước thiên nhiên, cuộc sống, hướng đến con người, từ đó sáng lên những nhân cách cao thượng, khoáng đạt, hào hùng như thơ Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông… là những minh chứng hùng hồn nhất.

Cảm hứng nhân văn trong thơ thời Lê Sơ gắn với vẻ đẹp tận tụy của ý thức trách nhiệm và sự

thanh cao của khí tiết kẻ sĩ (sáng tác của Nguyễn Trãi).

Vẻ đẹp nhân văn của dòng văn học từ cuối đầu thế kỉ 16 thể hiện ở việc các tác phẩm đã trân

trọng ngợi ca những khát vọng trong tình yêu và hạnh phúc chính đáng của con người, đặc biệt là

người phụ nữ trong xã hội cũ. Văn học đề cao vẻ đẹp của con người đặc biệt là giá trị về tâm hồn,

phẩm cách ( tác giả Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái…)

Tinh thần nhân văn của Thơ Mới, văn xuôi 30 - 45 là ở sự khẳng định cái tôi cá nhân, cái nhìn

nhân văn của những tác phẩm sau 75 hướng tới góc ần khuất trong đời sống con người, phát hiện

những vẻ đẹp của con người ở nhiều góc độ khác nhau..

Như vậy, “nhân văn” không chỉ là thước đo giá trị của văn học, không chỉ khằng định tấm

lòng, sự tâm huyết, trăn trở của nhà văn với cuộc đời, với số phận con người mà nó đã trở thành một nhịp cầu nối kết giữa người xưa và người sau, giữa các bộ phận và các giai đoạn trong nền văn học dân tộc. Thế hệ hôm nay sẽ tìm thấy những gần gũi lạ kì trong suy tư, tình cảm, cảm xúc của người xưa, những đồng cảm sâu sắc vượt thời gian về những vấn đề muôn thủa của con người, thêm tự hào về những giá trị quý báu của văn học dân tộc.

Tìm hiểu về truyện cổ dân gian Việt Nam, bên cạnh những giá trị nội dung và nghệ thuật của

mảng sáng tác truyền miệng này, giá trị nhân văn là một giá trị đặc sắc của truyện cổ dân gian, nó

mang tính chất khởi nguồn, góp phần tạo nên một dòng chảy mãnh liệt xuyên suốt các giai đoạn của nền văn học viết. Tình thần nhân văn là cảm hứng dạt dào của các nghệ sĩ dân gian với nhiều biểu hiện vô cùng phong phú.

2. Tinh thần nhân văn là tư tưởng xuyên suốt của loại hình truyện cổ dân gian Việt Nam với

những biểu hiện phong phú

2.1. Khát vọng chinh phục, chế ngự thiên nhiên, giải thích tự nhiên

Đó là mong ước, khao khát cháy bỏng của muôn đời, đặc biệt là con người ở thời kì cổ đại.

Trong buổi bình minh của lịch sử loài người, cuộc đối thoại đầu tiên giữa con người với vũ trụ chứa đầy sự bí ẩn. Và nhu cầu được lí giải tự nhiên, dẫn đến khát vọng chính phục, chế ngự thiên nhiên là điều dễ hiểu. Các tác phẩm Thần trụ trời, Sơn Tinh Thủy Tinh, Mai An Tiêm, Sử thi Đăm San, Đẻ đất đẻ nước.. đã thể hiện khát vọng đó của con người.

Sử thi Đăm Săn mang đến những sự lí giải về thiên nhiên cũng rất độc đáo và hấp dẫn.. Nữ

thần Ánh sáng, nữ thần Mặt Trời trong trí tưởng tượng của người Ê đê cổ đại thật phong phú, mạnh mẽ và táo bạo. Họ tưởng tượng cái quả cầu lửa phát ra ánh sáng cho khắp thế gian là một cô gái rực rỡ huy hoàng. Cô gái ấy là một vị thần, nhưng trước hết vẫn là một cô gái Ê đê đi đứng yểu điệu, dịu dàng như diều bay, phượng hoàng liệng, như nước chảy êm đềm, nàng cũng thay váy áo mới để tiếp khách như bao cô gái Ê đê khác… Cách miêu tả cho thấy thần linh rất gần gũi với con người. Ngôi nhà của nữ thần có thang lên làm bằng cầu vồng, mọi thứ đều bằng vàng, tỏa sáng lóng lánh… Rồi hành động Đăm Săn ra đi chinh phục nữ thần Mặt Trời, bắt nàng về làm vợ đã thể hiện sự cao nhất, quyết liệt nhất niềm khao khát muôn đời của con người là làm chủ hoàn toàn những thế lực tự nhiên kì vĩ, đầy bí hiểm có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến sự sống trên mặt đất

Tìm về với truyện cổ dân gian Việt nam nói chung và sử thi nói riêng, mỗi tác phẩm là một

khúc ca ngân lên khát vọng đẹp đẽ của con người, là một thế giới mơ ước được chắp cánh bằng trí tưởng tưởng hồn nhiên, bay bổng và rất đỗi ngây thơ của con người cổ đại.

2.2. Khát vọng độc lập tự cường

Khát vọng độc lập tự cường là khát vọng của con người Việt Nam ở mọi thời đại. Bắt nguồn

từ lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm nên đó là khát vọng được cháy lên từ hiện thực cuộc sống. Khát vọng một đất nước độc lập tự cường, đất đai sạch bóng quân thù, bờ cõi được mở mang, quốc gia phát triển thịnh vượng sẽ là tiền đề mang tới cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho con người. Đó là khát vọng lớn lao thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp.

Đến với truyền thuyết Thánh Gióng, Sự tích Gồ Gươm (đã học cấp II) và truyền thuyết An

Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy… khát vọng đó của con người được thể hiện mãnh liệt hơn bao giờ hết. Là một vị Vua đứng đầu nhà nước Âu lạc, An Dương Vương ấp ủ trong mình khát vọng độc lập tự cường. Để biến ước mơ ấy trở thành hiện thực nhà Vua cho dời đô từ vùng rừng núi Nghĩa Lĩnh về đồng bằng Cổ Loa. Truyền thuyết chỉ kể lại một câu đơn giản như vậy nhưng đó là cả một sự nghiệp “dời non lấp bể” của một dân tộc ở buổi bình minh , là bước chuyển mình to lớn từ nhận thức khát vọng thành hành động việc làm. Cổ Loa là nơi đồng bằng đắc địa, đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào phù hợp với việc trồng lúa nước, lại có giao thông thuận lợi. Dời đô về nơi ấy, Nhà Vua đã gửi gắm vào mảnh đất ấy những hạt mầm sinh sôi, những ước vọng cho nhân dân một cuộc sống no đủ, xã tắc cường thịnh. Đó không chỉ là khát vọng của nhà Vua mà còn là khát vọng của toàn thể dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước, bảo toàn nền độc lập tự cường.

Nhưng để thực hiện khát vọng ấy không hề đơn giản. Mục đích càng lớn lao thì con đường đến đích càng lắm chông gai. Dời đô về Cổ Loa nghĩa là tự phơi mình giữa đồng bằng, thách thức kẻ thù. Thấy được mối đe dọa đó, An Dương Vương cho xây thành đắp lũy. Việc xây thành khó khăn, xây lại đổ. Yếu tố kì ảo xuất hiện, hình ảnh cụ già bí ẩn và thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành chế nỏ là những yếu tố không có thật xuất hiện như một minh chứng cho sự đồng tình của thần linh đối với khát vọng độc lập tự cường của dân tộc. Hình ảnh nỏ thần chính là sự thần thánh hóa và bí mật của vũ khí là kết tinh của trí thông minh và nghệ thuật giữ nước của cha ông. Như cây gậy sắt của Thánh Gióng, nỏ thần với những mũi tên bách phát bách trúng khiến quân Triệu Đà thua, Âu lạc chấm dứt cảnh binh đao, ca khúc thái bình. Đó là mong ước ngàn đời quốc gia được độc lập, yên bình đối với một dân tộc nhiều giặc dã.

Không dừng lại ở đó, dân gian kể tiếp bi kịch nước mất, nhà tan, tình yêu tan vỡ. Khát khao về

một dân tộc độc lập khiến ta quý trọng nền độc lập bao nhiêu càng lên án trước những hành động dù vô tình làm mất nước của hai cha con An Dương Vương. Rùa Vàng là hiện thân cho thái độ của nhân dân. Lời thét lớn của Rùa vàng “ Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó” chính là sự phê phán gay gắt dành cho Mị Châu xuất phát từ tình yêu nước, lòng thiết tha với nền độc lập dân tộc.

Khát vọng độc lập tự cường là khát vọng chưa bao giờ ngừng nung nấu trong trái tim những

người dân đất Việt. Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là câu chuyện về một quá trình dựng nước, giữ nước đầy vất vả khó khăn và bi kịch nước mất nhà tan, tình yêu tan vỡ ấy khiến ta biết trân trọng nền độc lập, biết căm ghét chiến tranh, lên án những kẻ vô tình hại nước. Câu chuyện là bài học đắt giá về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng đừng để xảy ra bi kịch như Mị Châu vì tình riêng mà quên đi trách nhiệm của một nàng công chúa. Yêu nước thôi là chưa đủ, để biến khát vọng tự cường độc lập thành hiện thực mãi mãi, mỗi người dân còn phải biết bảo vệ nền độc lập, hết mình xây dựng đất nước. Đó cũng là bức thông điệp mà dân gian ta gửi gắm cho người đọc. Thông điệp xanh ấy được viết nên từ cảm hứng nhân văn cao đẹp - vì con người.

2.3. Ngợi ca tình nghĩa đạo lí con người

Dân tộc Việt Nam xưa kia sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ. Vì thế mà từ ngàn đời nay, con người Việt Nam luôn sống với nhau trọn nghĩa vẹn tình, luôn nhắc nhau phải giữ tròn đạo lí làm người. Nét đẹp nghĩa tình đạo lí ấy đã được dân gian gửi gắm vào trong các truyện cổ dân gian : từ đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây, truyện thơ Tiễn dặn người yêu đến truyện cổ tích Chử Đồng Tử.

Đăm San chiến thắng Mtao Mxây là bắt nguồn từ danh dự của một người anh hùng khi bị kẻ thù lăng nhục, nhưng sự quyết chiến ấy còn được tạo nên từ nghĩa tình chung thủy với vợ là Hơ Nhí, bằng nghĩa tình sâu nặng với buôn làng. Chàng đã làm tròn đạo lí của một người chồng, làm vẹn nghĩa với một người tù trưởng khi sự bình yên của buôn làng mình bị uy hiếp. Lời ngợi ca người anh hùng còn được cất lên khi chàng có nghĩa cử vô cùng cao đẹp với dân làng của Mtao Mxây, chàng đã kêu gọi tha thiết, chân thành họ hãy đi theo mình. Hành động ấy không chỉ thể hiện tấm lòng bao dung của Đăm Săn mà còn làm sáng lên đạo lí : “thương người như thể thương thân” trong con người lẫy lừng ấy. Và rồi Đăm Săn được thưởng công không chỉ là buôn làng của mình ngày càng thịnh vượng, giàu có mà chàng còn trở thành một tù trưởng tiếng tăm lẫy lừng, được mọi người kính nể.

Đến với Truyện thơ Tiễn dặn người yêu, truyện tình mặn nồng, sâu sắc của Anh yêu và Em

yêu dù có để lại bao nỗi xa xót, sầu muộn nhưng nghĩa tình thủy chung của họ giống như một lời ca vút lên giữa cái thẳm xanh của đại ngàn. Nghĩa tình của chàng trai dành cho cô gái thật đẹp, thể hiện qua lời dặn ngậm ngùi của anh, qua lời bày tỏ niềm mong ước được “ kề vóc mảnh, quấn quanh vai, được bế bé xinh, nựng con rồng con phượng”. Rồi bằng nghĩa tình sâu đậm họ hẹn ước với nhau dù không lấy nhau mùa hạ họ lấy nhau mùa đông, không được bên nhau thời trẻ, họ sẽ bên nhau khi góa bụa về già. Cô gái về nhà chồng như hoa đã có chủ nhưng kì lạ thay, chính lúc ấy tình nghĩa năm xưa của họ vụt trở về toả sáng lung linh. Ánh sáng của tình nghĩa mặn nồng có trong lời anh gọi cô gái tỉnh giấc, ngọt ngào trong chén thuốc anh nấu cho cô gái khỏi đau và đậm sâu trong biết bao lời thề vàng đá mà anh đã trao cả cho cô. Trong những lời thề ước ấy, anh có nhắc đến cái chết mà lại nhắc đến 6 lần nhưng cả 6 lần ấy ta đều không cảm nhận được cái tối tăm, kinh hoàng của cõi hư vô mà lại thấy thẳm xanh màu nước “mát lòng”, non tơ một màu trầu “ bền chặt”. Nghĩa tình đậm sâu ấy của họ dù có bị thử thách qua cái chết cũng vẫn vẹn nguyên tươi thắm như buổi ban sơ. Tình yêu họ dành cho nhau mãi khắc tạc vào thời gian, năm tháng, vào đất, vào trời như núi non đại ngàn vẫn sừng sững, trơ trơ…

Đến thế giới cổ tích, thế giới của những giấc mơ những ta không chỉ được mơ mà con được

học ở chính nghĩa tình và đạo lí mà người xưa gửi găm nơi phép màu thần tiên. Truyện cổ tích Chử Đồng Tử xúc động lòng người ở vẻ đẹp đạo làm con, ở tấm lòng hiếu thảo trong tâm hồn chàng trai nghèo. Trao đi cái nghĩa tình cho cha ấy để rồi cuối cùng Chử Đồng Tử lại được nhận về đủ đầy những tình nghĩa mặn nồng - ấy là nghĩa tình của nàng công chúa Tiên Dung sinh ra từ trong nhung lụa, lớn lên trong bạc vàng châu báu những lại quyết gửi gắm phần đời sau của mình cho chàng trai nghèo nơi bến sông. Họ sống với nhau dù cuộc sống lao động đầy khổ cực nhưng luôn ngập tràn tình yêu thương, nghĩa tình sâu nặng. Nghĩa tình đẹp đẽ mà họ trao cho nhau đã cảm thấu cả trời xanh, để thần tiên ban phước lành, giàu sang, phú quý và giúp họ tránh xa tất cả thị phi chốn nhân gian mà giữ gìn mối lương duyên tốt đẹp nơi tiên cảnh. Nghĩa tình chân thành và cảm động của họ người đời sau mãi khắc ghi và lưu truyền đến ngàn năm.

2.4. Khát vọng công lí

Niềm mơ ước cái thiện thắng cái ác và mơ ước về hạnh phúc của nhân dân lao động Việt Nam

xưa là niềm mơ ước không bao giờ vơi cạn, đó là biểu hiện tha thiết về khát vọng công lí trong cuộc đời trăm đắng ngàn cay này.

Truyện cổ tích Chử Đồng Tử, Cây Khế, Thạch Sanh, Sọ Dừa… là những câu chuyện thể hiện

khát vọng công lí của nhân dân ta. Đặc biệt, truyện cổ tích Tấm Cám đã nói lên khát vọng ấy thật thấm thía và sâu sắc hơn bao giờ hết. Thân phận con côi, những giọt nước mắt tủi hờn sau những lần bị đầy đọa, ức hiếp là minh chứng cho sự đau khổ tưởng như không bao giờ chấm dứt của cuộc đời Tấm, nhưng với cái nhìn công bằng, nhân ái, nhân dân ta đã đứng về phía những con người bất hạnh, làm sáng lên khao khát được sống hạnh phúc, làm dịu đi những đắng cay chua chát của đời họ. Nhân dân đã để cho ông Bụt đến bên cô gái nghèo, xuất hiện mỗi lần Tấm khóc, an ủi nâng đỡ mỗi khi Tấm gặp khó khăn. Cùng với Bụt là con gà, con chim sẻ - những con vật thần kì đã trợ giúp cho Tấm trên con đường đi đến hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân ta mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, cô đơn trong xã hội xưa. Niềm mơ ước không chỉ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời mà cháy bỏng khát vọng công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.

Khát vọng công lí trong Tấm Cám còn được thể hiện cao hơn nữa khi nhân dân đã thổi một

sức sống mãnh liệt cho nhân vật, để Tấm tự giành và giữ lấy hạnh phúc của mình và thực hiện “ oán thì trả oán, ân thì trả ân” đến tận cùng. Cuộc chiến đấu giữa Tấm và mẹ con dì ghẻ gian nan, quyết liệt nhưng cuối cùng Tấm đã chiến thắng. Đó là chiến thắng tất yếu của cái thiện. Kết thúc có hậu của câu chuyện hay là bức tranh đẹp đẽ về một xã hội lí tưởng mà con người ngàn đời mong ước khát khao.

Nếu Tấm được trở về cung làm hoàng hậu, mẹ con Cám bị trừng trị thích đáng thì Ngô và Cải (Nhưng nó phải bằng hai mày) vẫn cứ phải sống trong vòng đời luẩn quẩn bất công. Không có ông Bụt, bà Tiên đứng ra phán xử công bằng của họ, chỉ có một tên quan nhơ bẩn, quen ăn tiền lo lót của dân. Bằng tiếng cười đả kích, bằng cái nhìn sắc sảo, dân gian đã bóc trần bản chất vô lại của thầy Lí. Tạo nên tiếng cười, dân gian đã tố cáo phê phán quan lại xưa kia từ đó thể hiện ước mơ đưọc sống công bằng, hạnh phúc trong một xã hội luôn có những người “ cầm cân nảy mực”.

2.5. Cái nhìn khoan dung đối với con người

Sự khoan dung , độ lượng, cái nhìn thông cảm, nhân ái của nhân dân ta cũng là biểu hiện đẹp

đẽ thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc trong truyện cổ dân gian. Trở lại với truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy mới thấy hết vẻ đẹp tinh thần cao quý đó của người xưa.

Hai cha con An Dương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác đã trực tiếp làm tiêu vong sự nghiệp

của mình và đưa Âu lạc đến diệt vong. Đó là bài học cay đắng về thái độ mất cảnh giác đó đối với kẻ thù. Lời kết tội đánh thép của nhân dân ta gửi trong câu nói của Rùa vàng “kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó”, hành động An Dương Vương “tuốt gươm chém Mị Châu” cho thấy thái độ nghiêm khắc, dứt khoát của nhân dân ta đã đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xứ án. Tuy nhiên, với tấm lòng khoan dung nhân ái, biết ơn người anh hùng An Dương Vương đã từng có công lớn trong sự nghiệp dựng nước, dân gian đã mĩ lệ hóa, bất tử hóa cái chết của An Dương Vương, đã sáng tạo nên hình tượng đẹp “ngọc trai – nước giếng” để bày tỏ sự xót thương, cảm thông với Mị Châu và Trọng Thủy.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

“Lời thơ dân gian không những sẽ bước đầu cho ta làm quen với tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa kia mà đồng thời sẽ còn giúp ta học được những cách nói năng tài tình chính xác. Theo tôi, đối với một người Việt Nam mà thiếu những kiến thức này thì có thể xem như là thiếu một trong những điều cơ bản.”

(Hoài Thanh, Một vài suy nghĩ về ca dao, Báo Văn nghệ, số 1,2-1-1982)

Qua một số bài ca dao đã học, đã đọc, anh (chị) hãy giải thích và làm sáng tỏ ý kiến trên.

Hướng dẫn :

  1. Dẫn dắt, giới thiệu ý kiến
  2. Giải thích ý kiến của Hoài Thanh

+Lời thơ dân gian

-Trong văn học dân gian có rất nhiều thể loại tập trung thể hiện đời sống của người dân xưa.

-Trong đó, ca dao là thể loại trữ tình bằng văn vần, diễn tả đòi sống nội tâm của con người. Nói cách khác, ca dao là thơ trữ tình dân gian truyền thống.

-Lời thơ dân gian là nói đến ca dao

+Làm quen với tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa kia

-Ca dao là tiếng nói tâm hồn sâu lắng, tha thiết của đồng bào ta xưa kia.

-Trong ca dao, tất cả những nỗi niềm cảm xúc của nhân dân ta đều được bộc lộ. Đó là tiếng nói của tình yêu đôi lứa, là những lời than thân trách phận, là tiếng cười vừa hài hước, vừa sâu cay, là mơ ước, là hi vọng, chờ đợi…

-Đọc và tìm hiểu ca dao, người đọc sẽ cảm nhận được tất cả những cung bậc cảm xúc đó trong đời sống tinh thần của người xưa.

+Học được cách nói năng tài tình, chính xác

-Trong văn học dân gian cũng như trong ca dao ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu là lời ăn tiếng nói hằng ngày giản dị, nôm na của những người lao động.

-Song cách nói năng ấy không phải không tài tình chính xác. Đó là cách nói xa vời, bay bổng khi thể hiện một tình yêu thầm kín, là cách nói đầy hình ảnh khi bộc bạch tâm trạng xót xa cho thân phận nghèo, là cách nói hóm hỉnh khi giễu cợt, đả kích…                                                                                                                         

-Cách nói năng đó đã giúp người đọc ca dao có thêm những kinh nghiệm quý báu trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc.

+Thiếu một trong những điều cơ bản

-Điều cơ bản: điều cốt lõi, không thể không có

-Văn học dân gian Việt Nam nói chung và ca dao Việt Nam nói riêng là kho tàng quý báu chứa đựng những nét đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc Việt Nam, là cội nguồn của sự hình thành và phát triển đời sống tinh thần của mỗi con người Việt Nam.

-Đến với văn học dân gian, đến với ca dao, mỗi người Việt Nam sẽ được đến với đời sống của chính ông cha, tổ tiên mình. Đó là nền tảng cơ bản cho sự phát triển mỗi nhân cách.

* Nội dung của cả ý kiến: Hoài Thanh khẳng định: Ca dao Việt Nam. không chỉ giúp mỗi người Việt Nam hiểu được đời sống tinh thần phong phú, đẹp đẽ của cha ông mình xưa kia mà còn giúp họ có thêm những cách nói năng giản dị mà chính xác, tài tình khi sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đó là những kiến thức cốt lõi không thể thiếu để mỗi con người Việt Nam tự phát triển mình.

  1. Làm sáng tỏ ý kiến

3.1. Ca dao thể hiện tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa

  • Tình yêu thiên nhiên
  • Tình cảm gia đình: tình cảm của con cái đối với cha mẹ, tình cảm vợ chồng, tình cảm anh em…
  • Tình yêu đôi lứa: Khát vọng hạnh phúc, hôn nhân. Nỗi nhớ nhung da diết. Tấm lòng thuỷ chung, son sắt
  • Tiếng nói than thân: Xót xa cho thân phận người phụ nữ phải sống phụ thuộc, không được quyết định hạnh phúc của mình. Lo lắng hạnh phúc tan vỡ do những rào cản của xã hội và sự mong manh của tình yêu. Đau đớn trước thân phận nhỏ mọn và khát vọng một tâm hồn trong sạch, cao đẹp
  • Tiếng cười hài hước: cười để giải trí; cười để chế giễu, tố cáo (Với từng biểu hiện, học sinh đưa dẫn chứng phân tích và chứng minh)

3.2. Ca dao giúp học được cách nói năng tài tình chính xác

  • Tài tình:

-Ngôn ngữ trong ca dao vốn giản dị, mộc mạc, đời thường nhưng cũng rất tinh tế, giàu hình ảnh

– Hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi: dải lụa đào, cầu dải yếm, mười tay…

-Biện pháp tu từ nghệ thuật: so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp, đối…

+Chính xác: Ngôn ngữ phù hợp, hiệu quả trong việc diễn tả những cung bậc khác nhau của tâm tư, tình cảm

-Ca dao tình yêu: Ngôn ngữ nhẹ nhàng, bay bổng, đầy tâm trạng

-Ca dao than thân: Ngôn ngữ lắng đọng, day dứt

-Ca dao hài hước: Ngôn ngữ hóm hỉnh, giễu cợt, đả kích với việc tạo ra những hình ảnh đối lập, gây cười

(Với từng biểu hiện, học sinh đưa dẫn chứng phân tích và chứng minh)

  1. Đánh giá chung

-Ý kiến đánh giá của Hoài Thanh vừa nêu được những nét đẹp của ca dao vừa khẳng định được ý nghĩa của ca dao trong đời sống tinh thần  của người dân Việt Nam.

Từ ý kiến đó, người đọc càng thêm yêu quý, trân trọng kho tàng ca dao và có cái nhìn đúng đắn về vị trí của nó trong văn học dân tộc và trong đời sống

4. Củng cố

- Ý nghĩa, giá trị của văn học dân gian với đời sống tâm hồn con người.

- Văn học dân gian bồi đắp những tình cảm cao đẹp cho con người: tình yêu nước, yêu con người, tình yêu đôi lứa....

5. Dặn dò

- Học bài cũ.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 28/09/2017

TIẾT 21-22.

VĂN HỌC DÂN GIAN VỚI VIỆC BỒI ĐẮP TÂM HỒN CON NGƯỜI

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết phân tích những giá trị cơ bản của văn học dân gian đối với tâm hồn con người Việt Nam thông qua những văn bản cụ thể.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Hiểu được những giá trị to lớn của VHDG, có thái độ trân trọng đối với di sản văn hóa tinh thần của dân tộc.

- Học tập tốt hơn phần VHDG trong chương trình.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-PHƯƠNG TIỆN

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở ghi, tài liệu tham khảo

C. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

ĐỀ 1.

Tình yêu quê hương đất nước trong ca dao.

Hướng dẫn làm bài :

Có thể nói, đặc điểm lịch sử dân tộc đã làm nên diện mạo của nền văn học dân tộc. Lịch sử Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh lớn và vô vàn cuộc chiến tuy quy mô không lớn nhưng không phải không ác liệt. Ở Việt Nam hầu như không có một thế hệ nào không một lần ra trận và có những thế hệ đã ba, bốn lần cầm gươm đánh giặc.

Thời Trần: ba lần đánh thắng quân Nguyên. Thời đại Hồ Chí Minh: đánh Pháp, đánh Mĩ, đánh giặc ở biên giới Tây Nam, đánh quân bành trướng phía Bắc. Đặc điểm này của lịch sử đã có ảnh hưởng rất lớn tới diện mạo của nền văn học dân tộc.

Vì vậy, ở cả hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết, tình yêu quê hương đất nước đã trở thành nội dung quan trọng, là khuynh hướng chủ đạo đã chi phối mạnh mẽ sự phát triển của các khuynh hướng khác. Tinh thần yêu nước được coi như đứng đầu bảng giá trị tinh thần của người Việt, nó như sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử văn học nước nhà.

Vẫn biết cảm hứng yêu nước là dòng chảy chính của văn học Việt Nam, nhưng trong văn học dân gian nội dung yêu nước lại mang một sắc thái rất riêng, Đất nước trong lòng người nông dân trước hết là những gì thật gần gũi, là làng quê, là mùa màng, là sản vật dung dị của mỗi địa phương. Đất nước là cái gì rất cụ thể, gắn liền với từng tên đất, tên làng, với hội hè đình đám, với cuộc sống lao động hàng ngày.

Những con người đổ mồ hôi, sôi nước mắt vì miếng cơm manh áo đâu phải chỉ là những kẻ thô kệch; chỉ biết chém to kho mặn, tâm hồn họ tuy chất phác nhưng lại rất nhạy cảm trước cái đẹp. Bởi luôn gắn bó với thiên nhiên nên trái tim con người rất dễ rung động, dễ bồi hồi trước một cảnh đẹp dẫu quen thuộc của đất nước quê hương:

Đứng bên ni đồng mênh mông bát ngát

Ngó bên tê đồng cũng bát ngát mênh mông

Thân em như chẽn lúa đòng đòngay

Phất phơ giữa ngọn nắng hồng buổi mai

Có lúc không nén nổi xúc động, họ cất tiếng mời gọi thật tha thiết:

Ai ơi đứng lại mà trông

Kìa núi Thành Lạng kìa song Tam Cờ

Người về thấy cảnh ngẩn ngơ

Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền

Quê hương càng nghèo, cuồc sống căng khó khăn hình như tình quê càng sâu nặng. Điều đó đã lí giải vì sao chính ở những mảnh đất nghèo khó lại thường sản sinh ra những tác phẩm nghệ thuật nói về quê hương sâu sắc nhất.

Đối với người nông dân xưa yêu Tổ quốc cũng chính là yêu quê hương, yêu mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình. Tình yêu quê hương được biểu hiện rất hồn nhiên qua sự tự hào vô hạn của người lao động về quê hương, làng xóm, tự hào về những cái nhất nhì rất đỗi vô tư, giản dị, có gì đó pha một chút hãnh diện thật đáng yêu:

Nhất cao là núi Ba Vì

Nhất cao là núi Tản Viên

Nhất cao là núi Lam Sơn

Đồng Nai gạo trắng nước trong

Ai vô xứ đó thì không muốn về

Có khi chỉ cần một cánh cò bay lả bay la, một chiếc cầu tre lắt lẻo, một khúc dân ca cũng đủ gợi lên bao tình thương mến, bởi hồn quê thấm đẫm trong từng cảnh vật bình dị. Lắm khi chỉ một giếng nước trong, một con đường mềm như dải lụa cũng gợi lên bao niềm tự hào trong trái tim những người nông dân đất Việt hiền lành.

Giếng làng Hạ vừa trong vừa má

 Đường làng Hạ lắm cát dễ đi

Lòng yêu quê hương, trước hết là do sự gắn bó máu thịt giữa mỗi con người với quê hương xứ sở. Đây là tâm lí chung của cộng đồng người Việt. Quê hương, hai tiếng ấy luôn luôn có ý nghĩa rất thiêng liêng nên dầu ở xứ xa vật chất có đủ đầy, thì sâu thẳm trong một góc tâm hồn vẫn dành trọn cho quê hương, đất nước. Tổ quốc với người tha hương là hình ảnh thật quen thuộc, bởi “khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn” (Chế Lan Viên).

Mỗi lần chia tay với đất quê thường trào dâng biết bao cảm xúc bịn rịn, nhớ thương:

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Yêu quê hương là yêu những sản vật cụ thể, bình dị quen thuộc, gợi hương vị quê nhà. Tổ quốc với người nông dân phong kiến xưa là làng xóm, quê hương, có nghĩa nước đi đôi với tình nhà nhưng nghĩa nước bao giờ cũng đặt lên trước tình nhà.

Điều đó giải thích vì sao đất nước ta không rộng, người chúng ta không đông mà chụng ta đã chiến thắng mọi kẻ thù. xâm lược, bởi với mỗi người dân đất Việt “Đỏi tự do hợn hò sống quỳ Tinh cẫm thiêng liêng ấy đã hợp sửc muôn nhẩ thanh sức mạnh dân tộc khi Tổ quốc cấn Vì thế trong,chiến tranh, dân tộc Việt Nam đã thực sự trở thành một dân tộc ưu tú, nhò thế mà có thể bách chiến bạch thắng.

ĐỀ 2.

Qua một số tác phẩm văn học dân gian đã được học và đọc thêm, anh (chị) có suy nghĩ gì về tinh thần lạc quan của nhân dân ta?

Hướng dẫn làm bài :

Văn học dân gian có các thể loại chủ yếu sau: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, truyện, thơ... Và ở mỗi thể loại lại có những tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần lạc quan của nhân dân ta ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tinh thần đó được thể hiện trong các tác phẩm văn học dân gian đó là lòng yêu đời vui vẻ, trong lao động họ hát, hò, đố nhau; trong ca dao tình yêu thì luôn mộc mạc, giản dị; ngay cả trong bị áp bức đau khổ nhất nhân dân ta vẫn không hề bi quan mà luôn lạc quan, tin tưởng hướng về phía trước, về "Mặt Trời hồng". Đặc biệt tinh thần lạc quan đó còn được thể hiện khá rõ nét qua các câu chuyện cổ tích, đó là ước mơ "ở hiền gặp lành", ước mơ hướng tới cái cao đẹp của nhân dân ta.
Trước hết tinh thần lạc quan của nhân dân ta được phản ánh qua các câu chuyện cổ tích. Nó thể hiện quan niệm đạo đức, lí tưởng và mơ ước của nhân dân về hạnh phúc và công lí xã hội. "Tấm Cám" là một trong những chuyện cổ tích thần kì phổ biến nhất ở Việt Nam, tiêu biểu cho tinh thần lạc quan của nhân dân ta. Chủ đề chính của truyện "Tấm Cám" là chủ đề xung đột giữa dì ghẻ và con chồng, tức loại chủ đề xung đột gia đinh, vốn chiếm vị trí quan trọng trong truyện cổ tích thần kì. Một chủ đề khác của truyện 'Tấm Cám" là chủ đề đấu tranh bảo vệ hạnh phúc chân chính của những con người chân chính. Cũng như các truyện cổ tích khác, quan niệm con người chân chính là những người hiền lành tốt bụng. Những người như vậy lại thường chịu nhiều nỗi thiệt thòi, gặp nhiều cảnh gian truân. Nhân vật Tấm tiêu biểu cho những người như vậy, và khi Tấm được làm vợ vua tức là có được hạnh phúc, thì đó là hạnh phúc chân chính - Tấm sống trở lại kiếp người, đoàn tụ với vua và trừng phạt mẹ con Cám, đó là sự phản ánh ý thức đấu tranh và nguyện vọng bảo vệ hạnh phúc chân chính của những con người chân chính. Chủ đề này cũng rất phổ biến trong nhiều truyện cổ tích khác. Trong truyện "Tấm Cám" có nhân vặt ông Bụt và mẫu đề nhân vật chết đi sống lại qua nhiều kiếp loài vật và cây cỏ. Nhân vật ấy và mẫu đề ấy có nguồn gốc sâu xa ở quan niệm vạn vật hữu linh, ở tín ngưỡng vật cổ, thời cổ và phản ánh sự phổ biến của đạo Phật ở nước ta. Ý nghĩa nhận thức tham mĩ của nhân vật và mẫu đề ấy là lòng tin vào sự tất thắng của cái thiện. Truyện phản ánh khá rõ số phận của cô gái mồ côi bất hạnh với ước mơ chiến thắng cái ác để giành và giữ hạnh phúc. Thông qua truyện, tác giả dân gian muốn thể hiện ước mơ thiện thắng ác, tinh thần lạc quan và nhân đạo của nhân dân ta.
 
Bên cạnh truyện cổ tích thì trong các truyền thuyết cũng phản ánh rất rõ tinh thần lạc quan của nhân dân ta. Truyền thuyết là những tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử) theo xu hướng lí tưởng hoá, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc. Tinh thần lạc quan của nhân dân ta thể hiện trong các tác phẩm của thể loại truyền thuyết không đơn thuần ở sự thể hiện những quan hệ tình cảm đời thường ngay trong lúc cam go nhất. Những chủ đề tình yêu hay sinh hoạt gia đình, tình cảm cha mc con cái., khi đi vào truyền thuyết đều được chi phối bởi cảm quan lịch sử. Truyền thuyết không phản ánh chính xác các sự kiện và nhân vật lịch sử, mà quan tâm hơn đến sự lay động tình cảm và niềm tin của người nghe sau những sự kiện và nhân vật đó. Vì vậy truyền thuyết thường gắn với lễ hội và phong tục thờ cúng. Tinh thần lạc quan của nhân dân được thể hiện ở ngay trong những nhân vật và sự kiện lịch sử cũng được nhân dân "chỉnh sửa” cho có phần “lạc quan" hơn theo ý muốn chủ quan của mình. Chẳng hạn trong lịch sử kể rằng. Hai Bà Trung sau khi thất bại đã nhảy xuống dòng sông Hát Giang tự vẫn, nhưng trong truyền thuyết, hai bà lại cưỡi hạc bay về trời. Kết cục đó không đúng như lịch sử, nhưng đã làm dịu bớt nỗi xót xa và phù hợp với tình cảm trân trọng của nhân dân đối với hai vị anh hùng dân tộc. Trong truyện "An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thuỷ chi tiết An Dương Vương cầm sừng tê rẽ nước đi xuống biển cũng thể hiện ý trên. Nhân dân không muốn một nhân vật có công lớn với đất nước như An Dương Vương phải chết nên đã mượn yếu tố tưởng tượng kỉ ào để chữa lại kết thúc bi thảm đó.
 
Tinh thần lạc quan của nhân dân ta được thể hiện rõ qua truyện cười dân gian, trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt hàng ngày, truyện cười dân gian được kể (lưu truyền) qua nhiều thế hệ để tăng thêm tinh thần lao động hăng say cho nhân dân. Truyện cười hay còn gọi là truyện tiếu lâm (có nghĩa là rừng cười) là một trong những thể loại tự sự tiêu biểu trong dòng văn học hài hước dân gian, bao hàm những loại truyện khác nhau về tính chất của đối tượng, phản ánh và do đó cả về tính chất hài hước. Ở truyện cười dân gian Việt Nam, đó là các loại truyện khôi hài, cái hài hước nằm trong những hiện tượng trái tự nhiên. Những hiện tượng trái tự nhiên nay mang tính chất hài hước chỉ ở mức độ gây nên những phản ứng về mặt tư duy lô gích chứ chưa phải là những phản ứng về mặt đạo đức xã hội. Ví dụ trong các truyện “Cháy”, “Treo biển”, "Ba anh mê ngũ"... tính chất hài hước của những lời nói, hành vi, cử chỉ của nhân vật có nguyên nhân ở sự hiểu lầm lời nói của nhau hoặc ở một các tật thuộc về sinh lí, chứ không phải do các nhân vật có thói xấu nào trong tính cách. Trong loại truyện trào phúng, cái hài hước nằm trong những con người có những thói xấu đi ngược lại những quan điểm đạo đức xã hội của nhân dân như thói lười biếng, xu nịnh, hách dịch... Ví dụ như các truyện "Trạng Quỳnh", “Trạng Lợn", "Ông Ó", “Tam đại con gà”, …Truyện cười dân gian là một biểu hiện của tinh thần lạc quan, chí thông minh sắc sảo và tinh thần đấu tranh chống lại cái xấu của nhân lân lao động.
 
Bên cạnh truyện cười dân gian là thần thoại. Thần thoại là hình thức truyện kể dân gian cổ nhất hình thành và phát triển trong thời kì đồ đồng, thần thoại là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hoá, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và của đời sông con người. Mác viết: "Bất cứ một truyện thần thoại nào cũng đều khắc phục, khống chế và nhào nặn các lực lượng của tự nhiên trong trí tưởng tượng” và "thần thoại là tự nhiên và bản thân các hình thái xã hội được trí tưởng tượng của dân gian chế biến đi một cách nghệ thuật và vô ý thức". Tinh thần lạc quan của nhân dân ta thể hiện ở chỗ: ngay từ trong thời kì đồ đồng gắn với tín ngưởng nguyên thủy, nhân dân ta đã “nường tượng” để giải thích nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên, giải thích nguồn gốc loài người. Đối với người đời sau thần thoại không những có giá trị như là những tài liệu quý cho các ngành khoa học như dân tộc học, sử học, tôn giáo, mà còn có giá trị thẩm mĩ to lớn, còn hấp dẫn chúng ta bằng những hình tượng nghệ thuật độc đáo vì đã được sản sinh ra trong "những điều kiện xã hội vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa"(Mác).
 
Nhóm thần thoại suy nguyên luận gồm những truyện kể nhân cách hóa và giải thích nguồn gốc của vũ trụ, của các quá trình diễn ra trong giới tự nhiên và cuộc sống muôn loài (như thần trụ trời, nữ thần Mặt Trăng, nữ thần Mặt Trời, thần Mưa, thần Gió, thần Biển...)
 
Nhóm thần thoại lịch sử gồm những truyện kể về nguồn gốc dân tộc (các truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ; Quả bầu tiên...), về sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc (thần Tản Viên, Ông Gióng, An Dương Vương...). Truyện thần thoại phản ánh ước mơ của con người: ước mơ sống hoà họp với tự nhiên và chiến thắng tự nhiên (Lạc Long Quân và Âu Cơ), thể hiện ước mơ về một tự nhiên hoà thuận, thể hiện lưỡng hợp mùa màng sinh sôi nảy nở. Cao hơn cả vẫn là ước mơ chinh phục tự nhiên và chiến thắng tự nhiên. Ví dụ: Sơn Tinh Thuỷ Tinh. Cóc kiện trời thể hiện tình thần lạc quan, đoàn kết của con người và ý chí quyết tâm chinh phục tự nhiên. Đó còn là ước mơ về cuộc sống no đủ và nhàn hạ. Nó phản ánh trực tiếp ước mơ hồn nhiên, giản dị trong nhận thức của con người, mong muốn nhận được sự ưu đãi của tự nhiên để sống nhàn hạ hơn, tạo nên giá trị nhân văn của tác phẩm thần thoại.\
 
Thần thoại Việt Nam đã vẽ nên được những nét lớn, một bức tranh thần thoại hoá về đất nước, con người và những sự kiện lịch sử, xã hội quan trọng trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc, đồng thời ghi nhận những giá trị tinh thần truyền thống đầu tiên của dân tộc: cần cù xây dựng đất nước, đoàn kết dân tộc, bất khuất kiên cường trong đấu tranh bảo vệ cộng đồng, bảo vệ lãnh thổ.
 
Cũng thể hiện tinh thần trên như thần thoại thì ở truyện thơ lại có những sắc thái biểu hiện riêng. Truyện thơ dân gian các dân tộc thiểu số là những sáng tác truyền miệng mang đậm bản sắc văn hoá, phong tục tập quán, phản ánh tâm hồn, tình cảm của đồng bào các dân tộc. Phần lớn cốt truyện của truyện thơ được lấy từ truyện cổ tích, có tình tiết, nhân vật cụ thể, nhưng nhiều câu thơ trong truyện lại mượn từ những câu ca dao, dân ca quen thuộc của mỗi dân tộc. Nghệ thuật kết hợp tự sự và trữ tình khiến cho truyện thơ vừa có khả năng phản ảnh khá sâu sắc hiện thực đời sống vừa thấm đẫm tâm trạng, tình cảm, tâm hồn con người các dân tộc trong hiện thực đó. Không phải dân tộc thiểu số nào cũng có truyện thơ. Một số truyện thơ quen thuộc thường được kể trong các dân tộc như: Út lót - Hồ liêu (Mường); Chàng Lú - Nàng Uá, Tiễn dặn người yêu (Thái)... Cùng với những lời thở than dằng dặc, truyện thơ còn thể hiện thái độ của người lao động nghèo phản kháng những kẻ bóc lột, trừng trị bọn cường hào ác bá, đấu tranh cho chính nghĩa, mong ước được đổi đời, sống ấm no hạnh phúc... phản ánh tinh thần lạc quan, lòng yêu đời, ham sống của người dân lao động các dân tộc.
  
Và phải đến ca dao, tục ngữ thì tinh thần lạc quan của nhân dân ta mới thực sự được in đậm. Con người ta ai cũng muốn thành đạt nhưng con đường dẫn đến thành công thường quanh co khúc khuỷu và lắm chông gai. Để động viên con cháu vững chí bền gan phấn đấu và tin tưởng ở thắng lợi, ông cha ta có câu tục ngữ:
Có công mài sắt có ngày nên kim 
Hay:
Một cây làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
 
Có thể nói có rất nhiều câu tục ngữ thể hiện đậm nét tinh thần lạc quan ở tương lai mà cha ông ta lưu truyền cho thế hệ sau.
 
Đến ca dao, dân ca thì tinh thần lạc quan của nhân dân ta càng được lung linh toả sáng hơn bao giờ hết. Ca dao cổ truyền Việt Nam có nội dung phản ánh đời sống sâu rộng, có tính trữ tình đậm đà, đồng thời cũng có tính tư tưởng sâu sắc. Ca dao có ba nội dung lớn đó là: ca dao than thân, tiếng hát yêu thương tình nghĩa, ca dao hài hước... Trong ca dao có thể tìm thấy những kí ức dân gian về một số sự kiện và nhân vật lịch sử quan trọng, những bằng chứng về tập quan làm ăn, tập tục gia đình và xã hội, tâm lí và thị hiếu của các tầng lớp nhân dân lao động thời xưa.
 
Trong ca dao yêu thương tình nghĩa ta thấy được truyền thống tốt đẹp của nhân dân trong tình yêu lứa đôi và tình nghĩa đối với quê hương, con người. Những câu hát yêu thương, tình nghĩa là chủ đề nổi bật, xuyên thẳm trong rất nhiều câu hát. "Không chờ đợi thơ chính quy thơ chuyên nghiệp diễn tả hộ cho minh, những người lao động từ thế kỉ này qua thế kỉ khác, diễn tả trực tiếp lòng mình yêu thương sướng vui, đau khổ" (Xuân Diệu).
- Cô kia đứng ở bên sông
Muốn sang anh ngã cành hồng cho sang. 
- Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi. 
Ca dao ra đời và tồn tại là để đáp ứng những nhu cầu bộc lộ tình cảm của nhân dân. Cùng với ca dao yêu thương tình nghĩa, ca dao than thân cũng có số lượng lớn và tiêu biểu cho kho tàng ca dao Việt Nam về nội dung cũng như nghệ thuật. Nhiều bài ca dao không chỉ là lời than thở về cuộc đời, cảnh ngộ khổ cực đắng cay mà còn là tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất con người. Đó là thân phận nỗi niềm của người phụ nữ, người nông dân ngày xưa:
- Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. 
- Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.
Nội dung cảm xúc và chủ đề của ca dao rất da dạng. Ngoài ca dao yêu thương tình nghĩa và ca dao than thân có không ít những bài ca dao hài hước châm biếm. Cùng với truyện cười, vè sinh hoạt, ca dao hài hước, châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội:
- Làm trai cho đáng nên trai
Một trăm đám cổ chẳng sai đám nào. 
- Anh hùng là anh hùng rơm
Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng. 
Qua những câu ca dao dân ca trên, ta cảm nhận được tiếng cười lạc quan yêu đời của người dân ta. Tinh thần lạc quan yêu đời được toả sáng cả khi cuộc sống còn bộn bề vất vả, thậm chí còn chất chứa cả trong những giọt lệ nóng hổi. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì người dân ta vẫn luôn hướng tới một tương lai tươi sáng, chúng ta thật tự hào khi được sinh ra và lớn lên ở một dân tộc như vậy.
 
Nói tóm lại qua các tác phẩm văn học dân gian, thế hệ trẻ chúng ta ngày nay vô cùng khâm phục và tự hào về tinh thần lạc quan của người dân ta. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc mà mỗi người dân Việt Nam phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tiếp thu và phát huy truyền thống đó. Bởi trong cuộc sống hàng ngày sự tác động của hoàn cảnh khách quan của dư luận đối với mỗi con người là điều tất yếu. Song điều cơ bản là thái độ của con người trước những tác động đó như thế nào? Nên chủ động tự tin vào mình hay phụ thuộc vào hoàn cảnh? Dĩ nhiên là phải chủ động tự tin và chiến thắng hoàn cảnh . "Dù ai nói ngã nói nghiêng thì lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân” . Mỗi người hãy tự rèn luyện cho mình một ý chí bền vững, một lập trường kiên định và một quyết tâm cao. Chúng ta bắt buộc phải trải qua một quá trình phấn đấu lâu dài gian khổ, rèn luyện cho mình khả năng vượt khó và có một niềm tin vững chắc vào bản thân trong quá trình lao dộng, vào mục đích ban đầu đặt ra đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh khách quan. Chỉ có như vậy mới xứng đáng với tinh thần lạc quan mà cha ông ta đã lưu truyền.
 
Các tác phẩm văn học dân gian, đặc biệt là các tác phẩm văn học dân gian thể hiện tinh thần lạc quan của nhân dân ta là lời khuyên nhủ chân tình và là một bài học sâu sắc rút ra từ thực tế đời sống trải qua bao thế kỉ của dân tộc ta. Trong hành trang bước vào đời của mỗi con người không thể thiếu vắng những bài học quý giá đó. Tinh thần lạc quan là cái đưa đến mọi thành công của mỗi con người.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Bàn về văn học dân gian, nhà văn Gorki nói: “Rất cần nêu lên rằng, trong văn học dân gian hoàn toàn không có bóng dáng của chủ nghĩa bi quan mặc dầu những người sáng tác văn học dân gian sống trong nhọc nhằn, cực khổ. Tập thể dường như vẫn có ý thức về tính bất diệt của mình và tin rằng mình sẽ chiến thắng tất cả những lực lượng thù địch”.

Bằng những hiểu biết về truyện cổ tích Việt Nam, hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

Gợi ý :

  1. Giải thích nhận định:

- Tác giả của văn học dân gian là nhân dân lao động, những con người luôn sống trong nhọc nhằn, cực khổ, luôn thua thiệt và chịu nhiều bất công.

- Trong tác phẩm, họ kể lại câu chuyện để nói về cuộc đời của mình, của tầng lớp mình.

- Tuy vậy, cách nhìn, cách nghĩ của họ trong tác phẩm thì luôn ánh lên niềm tin, niềm lạc quan mãnh liệt về sự chiến thắng của cái đẹp, điều thiện đối với cái xấu, cái ác.

2. Chứng minh:

Câu nói của M.Gorki là nhận định về văn học dân gian nói chung nhưng đề bài chỉ yêu cầu chứng minh bằng truyện cổ tích. Bởi vậy thí sinh cần lựa chọn và phân tích được những dẫn chứng tiêu biểu của thể loại truyện cổ tích để chứng minh.

a. Hoàn cảnh sống của nhân dân trong truyện cổ tích:

- Truyện cổ tích ra đời trong hoàn cảnh xã hội quá độ từ chế độ công xã nguyên thuỷ sang chế độ phong kiến và phát triển mạnh trong xã hội phong kiến. Đó là chế độ xã hội nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nhiều mối quan hệ phức tạp, trong đó nổi lên là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa giai cấp thống thống trị và bị trị. Sự phân chia giai cấp và mâu thuẫn đó thể hiện ở sự phân tuyến của nhân vật.

- Qua truyện cổ tích, tác giả dân gian nói về cuộc sống cực khổ, nhọc nhằn, luôn chịu cảnh bất công của giai cấp mình.

+ Họ bị bóc lột sức lao động (Cây tre trăm đốt).

+ Họ bị lừa gạt (Tấm Cám, Thạch Sanh, Cây tre trăm đốt).

+ Họ bị đối xử bất công, bị khinh rẻ, chịu nhiều thua thiệt (Cây khế, Sọ Dừa, Lấy vợ cóc…).

+ Cuộc sống nghèo khổ, khốn cùng (Chử Đồng Tử).

b.Truyện cổ tích không hề có bóng dáng của chủ nghĩa bi quan, mà luôn tin vào tập thể, tin vào sự chiến thắng của lẽ phải, điều thiện.

- Trong đói nghèo, thiếu ăn, họ mơ về sự no ấm, đủ đầy (nồi cơm của Thạch Sanh, lâu đài của Chử Đồng Tử, đảo vàng trong Cây khế…).

- Trong cảnh sống bất công, họ mơ về sự công bằng, dân chủ (Cây khế, Cây tre trăm đốt).

- Họ tin vào sức mạnh của tình yêu có thể vượt qua những hố sâu ngăn cách về địa vị: chàng trai nghèo lấy được công chúa, cô gái nghèo lấy được vua.

- Họ tin vào sức sống bất diệt của mình: cô Tấm chết đi sống lại nhiều lần, mỗi lần sống lại lại trở nên mạnh mẽ hơn; Sọ Dừa cởi bỏ lốt quái dị trở thành chàng trai khôi ngô..

- Họ tin vào khả năng của mình sẽ chiến thắng cái ác, cái xấu (Sọ Dừa, Lấy vợ cóc).

- Sự xuất hiện của Tiên, Bụt cũng là ước mơ, niềm tin của nhân dân lao động về sức mạnh của lẽ phải, công lí và điều thiện.

- Cách kết thúc có hậu của các truyện cổ tích thần kì chính là sự thể hiện niềm tin đạo đức , sự khẳng định lạc quan: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.

3. Đánh giá:

- Truyện cổ tích ra đời trong hoàn cảnh xã hội có nhiều bất công. Tác giả dân gian không ngần ngại khi phơi bày thực trạng khốn cùng trong cuộc sống của mình. Song truyện cổ tích không hề gây cảm giác bi thương, bi luỵ bởi tinh thần lạc quan thấm đẫm trong các tác phẩm.

- Tinh thần lạc quan chính là sức mạnh tinh thần to lớn giúp họ vượt lên hoàn cảnh sống bất công, ngặt nghèo. Đây là giá trị nhân văn sâu sắc của truyện cổ tích.

4. Củng cố

- Ý nghĩa, giá trị của văn học dân gian với đời sống tâm hồn con người.

- Văn học dân gian bồi đắp những tình cảm cao đẹp cho con người: tình yêu nước, yêu con người, tình yêu đôi lứa....

5. Dặn dò

- Học bài cũ.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 29/09/2017

TIẾT 23-24.

VĂN HỌC DÂN GIAN VỚI VIỆC BỒI ĐẮP TÂM HỒN CON NGƯỜI

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết phân tích những giá trị cơ bản của văn học dân gian đối với tâm hồn con người Việt Nam thông qua những văn bản cụ thể.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất

- Hiểu được những giá trị to lớn của VHDG, có thái độ trân trọng đối với di sản văn hóa tinh thần của dân tộc.

- Học tập tốt hơn phần VHDG trong chương trình.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-PHƯƠNG TIỆN

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở ghi, tài liệu tham khảo

C. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1 :

Tình nghĩa trong ca dao.

Hướng dẫn làm bài :

Ca dao ra đời từ ngàn xưa, gắn với cuộc sống trăm đắng ngàn cay nhưng đậm tình nặng nghĩa. Những câu hát phản chiếu đời sống tâm hồn, đời sống tình cảm của người bình dân, chứa đựng những đạo lí dân gian sâu sắc.
Những đề tài ca dao bắt nguồn từ thực tế cuộc sống lao động sản xuất và những sinh hoạt đời thường, từ những rung động tinh tế trước thiên nhiên, từ đời sống thuần hậu chất phác của người lao động. Chính vì thế, những hình ảnh ca dao mộc mạc nhưng mang theo bao hơi thở tâm tình, những nỗi niềm thân phận. Toát lên từ những lời ca là ý thức về phẩm giá, nhân cách, là những tình cảm thương nhớ đợi chờ, là khát vọng được sẻ chia, là ước ao về cuộc sống thủy chung mặn nồng.
Ta hãy nghe những lời tình tự trong mô-tip thân em quen thuộc của ca dao:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Không ngẫu nhiên đâu, khi những ví von về người phụ nữa lại gắn với hình ảnh “tấm lụa đào” gợi cảm, vừa mềm mại dịu dàng như bản tính cố hữu của người phụ nữ, vừa tươi tắn sắc đào tươi như sức sống mãnh liệt của tâm hồn. Thế nhưng tấm lụa cao quí ấy đã trở thành món hàng trao đổi – phất phơ giữa chợ. Thân phận người phụ nữ ngày xưa là thế, mỏng manh, phụ thuộc không biết đi đâu về đâu giữa dòng đời trong đục khó phân. Bởi thế, lời ca dao như một tiếng than, ngậm ngùi trong câu hỏi vọng lên biết vào tay ai? Dẫu phải rơi vào những nghịch cảnh như vậy, những lời ca về thân em vẫn toát lên một niềm kiêu hãnh về phẩm giá:
Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi, nếm thử mà xem
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
Trong lời ca dao này, chứa đựng cái nhìn dân gian quanh việc đánh giá hình thức – nội dung, hiện tượng – bản chất qua một so sánh trực quan với củ ấu gai nhỏ bé. Vẫn là cách nói nhún nhường thân em, nhưng kín đáo bộc lộ vẻ đẹp “ruột trong thì trắng” đối lập với vẻ bề ngoài đen đủi xấu xí. Lời nhắn nhủ “ai ơi nếm thử mà xem” vừa như trách móc, vừa như thiết tha mong mỏi ai ơi kia sẽ đến với nhau vì cái “ngọt bùi” nồng nàn tình nghĩa. Không chỉ là tiếng nói tỏ bày tấm lòng, bài ca dao còn ẩn chứa nỗi niềm cay đắng thân phận, bởi lẽ người đời đôi khi lại phũ phàng thờ ơ với những vẻ đẹp thực chất mà đuổi theo cái hào nhoáng bề ngoài. Bởi thế, những tâm tình cất lên như một sự cảnh tỉnh, một lời nhắc nhở con người đến với nhau bằng tấm lòng.
Ca dao có khả năng chắt lọc nghệ thuật sống từ chính những cái cụ thể gần gũi trong đời sống hàng ngày để tạo ra những liên tưởng gắn với thế giới tâm hồn phong phú tinh tế, với những tình cảm phức tạp của con người. Một vị khế chua mang theo bao xót xa cho tình duyên không trọn vẹn. Những nghịch cảnh bất công trong cuộc đời cũ luôn là lực cản khiến cho đôi lứa phải chia lìa. Trong những trái ngang ấy, lời ca dao cất lên bao thiết tha nhung nhớ:
… Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng
Mình ơi! có nhớ ta chăng?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời
Tâm sự “mình –ta” biết bao quyến luyến! Mô-tip mình – ta bao giờ cũng đọng lại những ân tình sâu nặng trong đời sống tình cảm của người bình dân. Tình yêu đôi lứa được sánh với ánh sáng mặt trăng, mặt trời, đặc biệt là các liên tưởng gắn với sao Hôm sao Mai –tuy hai mà một thật khắng khít. Từ đó hướng tới những giá trị cao cả bất tử của tình nghĩa dành cho nhau. Và cũng thật thú vị biết bao khi ánh sao kia lại biến thành “sao Vượt” băng qua bao trở lực đón nhận tình cảm nồng nàn. Ca dao đã diễn tả nỗi lòng hướng về nhau thật tinh tế:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai…
Ta nghe như có bao dùng dằng thương nhớ trong từng lời nồng nàn. Khăn thương nhớ ai, đèn thương nhớ ai… từng động tác, từng cái nhìn như mang theo cái bồn chồn lo lắng cho duyên tình trắc trở. Nhịp thơ dàn trải, mong manh. Có thể hình dung ra từng cử chỉ, từng động tác dồn nén nhớ thương. Lời ca dao gợi lên bao suy ngẫm về hoàn cảnh trớ trêu của người phụ nữ không tự định đoạt được duyên tình của mình. Bức tranh tâm trạng ấy vừa được tạo nên bằng những hình ảnh nối kết khăn – đèn – mắt, vừa là điệp khúc tâm trạng đầy day dứt “… thương nhớ ai” – hàm chứa trách móc giận hờn . Khoảnh khắc người con gái đối diện chính mình cũng là lúc ta nhận ra chiều sâu tâm hồn đằm thắm thủy chung, nhận ra nỗi lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Bài ca dao này cũng như một lời ca dao tương tự : đêm qua ra đứng bờ ao/ trông cá cá lặn trông sao sao mờ…. Mỗi vật được nhắc đến như chứa đựng trong đó cả tấm tình hướng về nhau. Nhịp lục bát khép lại tâm tư trĩu nặng:
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên mọi bề
Lời ca dao kín đáo như oán như than, hé mở bao bất công ngang trái, trắc trở tình duyên. Không gian cảnh vật như chứa đựng nỗi niềm con người, thành tâm trạng cất lên lời nhắn nhủ tha thiết. Nhưng có thể thấy cùng với niềm tin son sắt, tình cảm nhớ nhung, không bao giờ ca dao lại đem đến cảm giác ủy mị yếu đuối mà luôn đau đáu một tấm lòng chung thủy.
Ngay trong những hoàn cảnh đắng cay chua xót, trong sự cách xa chia lìa, tấm lòng người bình dân dành cho nhau thật bền bỉ:
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa dày
Có xa nhau đi nữa ba vạn chín nghìn ngày mới xa
Hình tượng “muối mặn – gừng cay” từ lâu đã gắn với cuộc sống bình dị của người dân quê: “Tay bưng đĩa muối chấm gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Cái mặn nồng của ân tình, cái cay cực cùng nếm trải đã kết lại những tấm lòng. Thời gian dù có cách xa, vị đời có thể nhạt nhẽo, nhưng những ân tình đã thành gừng cay muối mặn thì không có một trở lực nào có thể làm lạt phai. Ân tình ấy được đo bằng thời gian đời người ba vạn chín nghìn ngày – trăm năm, đã trở thành lẽ sống đậm đà tình nghĩa thủy chung của dân tộc. Thật cụ thể và sâu sắc biết bao những lời lẽ mộc mạc mà chắc nịch chi li như vậy, Tình yêu, lòng chung thủy đã gắn kết nên đôi lứa, giúp con người vượt qua qui luật khắc nghiệt của tạo hoá. Độ nồng nàn của tình cảm, sức mạnh của tình yêu vượt lên cả cái chết.
Tình nghĩa trong ca dao phong phú , tinh tế và sâu sắc, trở thành nền tảng đạo lý và vẻ đẹp tâm hồn của dân tộc. Mỗi lời ca dao mang theo bao tâm tư, khát vọng, giúp con người vượt lên nghịch cảnh, sống với nhau trọn vẹn nghĩa tình. Cũng nhờ vậy, những vẻ đẹp cuộc đời đi vào ca dao đáng yêu, đáng quí biết bao. Sức sống ca dao mãi mãi trường tồn cùng dân tộc, gắn với vẻ đẹp của những tâm hồn nhân hậu, cao cả, trong sáng của người bình dân.

Đề 2.

Ca dao về tình yêu nam nữ.

Hướng dẫn làm bài :

Tình yêu là bản chất thiêng liêng và tự nhiên của con người cho nên dù ở thời đại nào, tình yêu bao giờ cũng là đề tài bất tận cho những áng văn chương.
Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa là một quốc gia nông nghiệp. Với hình thể chữ S mềm mại uốn cong ven bờ Thái Bình Dương, với cảnh vật thiên nhiên kỳ tú như cỏ cây hoa lá, như núi cả sông sâu, như lũy tre xanh, như đồng ruộng óng ả lúa vàng,... hòa với tâm tình và lịch sử của dân tộc, quê hương Việt Nam đã có một nền văn chương bình dân hay bác học hết sức phong phú đầy nét vẽ chân thành pha lẫn những điểm tế nhị và sâu sắc.
Trong cái tình cảm đa dạng đó của dân tộc, tình yêu nam nữ đã vươn lên như cánh hoa nở trong vườn đời, tạo nên biết bao câu ca giao tình tứ , bao vần thơ truyền khẩu lãng mạn.

Có một hằng số bất biến cho mọi thời đại, đó là tình yêu. Khi yêu con người thường có nhu cầu, khát vọng giải bày những tâm trạng, tình cảm, nỗi lòng của mình mà ngôn ngữ đời thường khó diễn đạt hết. Tình yêu nam nữ là tình cảm được thăng hoa đẹp nhất của con người. Ở đó có đủ các sắc thái, tiết tấu, cung bậc, thanh âm... Vì vậy mà sự thể hiện tình yêu trong ca dao nhờ đến một quan hệ có ý nghĩa biểu hiện lớn – quan hệ liên tưởng.

Nếu nói về hình tượng người nông dân Việt Nam ca dao thường dùng những hình tượng quen thuộc trên đồng nội của một đất nước nông nghiệp trồng lúa nước như con cò, hoa sen thì đối với đề tài tình yêu nam nữ, phương tiện biểu hiện hết sức rộng lớn. Điều này dễ hiểu vì rằng mấy ai biết được biên giới và bến bờ của tình yêu. Tuy nhiên trong trường liên tưởng của những chàng trai cô gái bình dân, sự lựa chọn đối tượng biểu đạt gắn với những gì gần gũi, thân thiết với môi trường lao động, sinh hoạt chốn làng quê. Đó là tre, trúc, mận, đào, ngọn mùng tơi, hoa khoai, hoa muống, con đò – bến nước, cây đa – khách bộ hành, thuyền – bến... Cơ chế liên tưởng cũng được thể hiện bằng các biện pháp ẩn dụ, nhân hóa là chủ yếu. Chính nhờ quan hệ liên tưởng mà kho tàng ca dao trữ tình Việt Nam ngập tràn hình ảnh, hình tượng, sinh động, tinh tế và có giá trị biểu cảm cao.

 

Nói đến ca dao về đề tài tình yêu nam nữ, chúng ta tự hào được thừa hưởng từ ông cha những bài ca dao thật đẹp về đầy đủ những giai đoạn, những sắc thái của một cuộc tình. Bắt đầu một tình yêu và để có một tình yêu thì trước hết phải là lời tỏ tình. Đây là giai đoạn cực kì khó khăn vì vạn sự khởi đầu lúc nào cũng nan giải. Nói làm sao cho người mình thương hiểu được tình cảm bấy lâu ẩn chứa trong lòng? Đã có người mạnh dạn tỏ tình trực tiếp kiểu:

Gặp đây anh nắm cổ tay

Anh hỏi câu này có lấy anh không?

Có người dùng chiếc áo bỏ quên trên cành hoa sen ở đầu đình làm cái cớ để tỏ tình. Lại có kẻ khôn ngoan hơn dùng lối bắc cầu, nói xa nói gần để tỏ lòng mình:

Đường xa thì thật là xa

Mượn người làm mối cho ta một người

Một người mười chín đôi mươi

Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.

Cũng có chàng nói chuyện tầm phơ tầm phào, trên mây trên mưa:

Trên trời mây trắng như bông

Ở giữa cánh đồng bông trắng như mây

Nhưng tầm phơ tầm phào trên trời là để nói chuyện dưới đất:

Ba cô má đỏ hây hây

Đội bông như thể đội mây về nhà

Có trường hợp, các chàng trai còn vu vơ hơn:

Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng

Nhưng chuyện mây xanh, mây trắng, mây vàng tưởng là vu vơ ấy chỉ là để nói về “nàng”:

Ước gì anh lấy được nàng

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây

Xây dọc rồi lại xây ngang

Xây hồ bán nguyệt cho nàng chao chân

Nhưng đó là cách tỏ tình của số ít những chàng trai táo bạo. Tình yêu ban đầu vốn e ấp, khó nói. Biết lòng người ta thế nào, thôi thì mượn một yếu tố gián tiếp để thổ lộ lòng mình. Vì vậy mới có chiếc cầu tình yêu trong ca dao thật thơ mộng, trữ tình.

- Đó là chiếc cầu rộng một gang, chiếc cầu bằng dãi yếm:

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dãi yếm cho chàng sang chơi.

- Đó là chiếc cầu được xe bằng sợi chỉ:

Sông cách sông, thủy cách thủy

Em xe sợi chỉ em bắc cây cầu

Để cho anh sang mà giảm mối sầu tương tư

- Đó còn là chiếc cầu độc đáo làm bằng ngọn mồng tơi:

Gần nhà mà chẳng sang chơi

Để anh bắc ngọn mùng tơi làm cầu.

- Lãng mạn hơn, bay bỗng hơn là một chiếc cầu được làm bằng một cành hoa hồng:

Đôi ta cách một con sông

Muốn sang anh ngã cành hồng cho sang.

Và còn bao nhiêu cây cầu bang giao tình cảm, tình yêu đôi lứa như thế nữa. Chiếc cầu rộng một gang làm bằng giãi yếm, bằng ngọn mùng tơi, bằng sợi chỉ hay bằng cành hoa hồng, rõ ràng đây là điều không có thực. Nhưng đó lại là cái chân thực đến cảm động của tình cảm và ước mơ, của một khát vọng tình yêu hết sức đẹp đẽ. Sở dĩ điều kì diệu trên được chấp nhận vì nó có cơ sở liên tưởng của nó.

Nước ta là đất nước bán đảo với sông suối, kênh rạch chằng chịt. Khi xã hội chưa phát triển thì chuyện “cách trở đò ngang” là chuyện phổ biến ở làng quê. Vậy nên có câu:

Sang sông thì phải lụy đò

Tối trời thì phải lụy o bán dầu

Tất nhiên thì khi yêu nhau, sự xa cách về không gian trở nên nhỏ bé, bởi:

Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo

Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.

Vậy nên trước con mắt của kẻ đang yêu, cong sông không đủ để làm cách trở. Đến đây ta hiểu được rằng, cây cầu mơ ước trên chỉ là cách để những người dang yêu thổ lộ tình yêu của mình. Ta thấy được sự trìu mến trong ước mơ, sự khát khao được gặp gỡ, gần gũi và sẻ chia của những chàng trai, cô gái.

Bên cạnh đó, cũng có những bài ca dao tỏ tình một cách đầy hình ảnh ẩn dụ bằng lối đối đáp dân gian.

- Đôi thứ nhất:

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng

Tre non đủ lá đan sàng được chăng?

Đan sàng thiếp cũng xin vâng

Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng?

- Đôi thứ hai:

Bây giờ mận mới hỏi đào

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?

Mận hỏi thì đào xin thưa

Vườn hồng đã có nhưng chưa ai vào.

- Một đôi khác, cô gái bạo dạn mở lời:

Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng

Cau xanh ăn với trầu vàng nên chăng?

Chàng trai còn chờ đợi gì nữa mà không bày tỏ:

Trầu vàng ăn với cau xanh

Duyên em gắn với duyên anh đương vừa.

Trong trường hợp đầu, chàng trai còn e ngại nên chỉ dám nói một cách rụt rè rằng tre non nhưng đã đủ lá và ngõ ý hỏi cô gái đan sang được chăng?

Nói như vậy là tài tình, khéo léo vì công thủ toàn diện. Cô gái nhận lời và khẳng định với chàng trai tình cảm vừa đến độ cính của mình: “Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng”. Như vậy là chàng trai đã thành công. Thật có đôi khi sự rụt rè, thật thà như chàng trai lại khôn ngoan và nên chuyện.

Nếu ở trên dùng thủ pháp ẩn dụ thì ở trường hợp thứ hai tác giả dùng thủ pháp nhân hóa. Với chuyện mận – đào – vườn hồng – có lối – chưa ai vào, ta lại thấy cách liên tưởng, tưởng tượng tài tình của ca dao. Bài ca dao có lẽ ai cũng đã hiểu. Ở đây, người viết xin mạo muộn nói thêm một điều suy nghĩ của mình. Trong bài ca dao có hai đối tượng là mận và đào. Với tâm lí người Việt thì có lẽ mận là chàng trai, đào là cô gái, vì mận chủ động “hỏi” đào. Nhưng cái hay của bài ca dao còn ở chỗ, nói mận và đào nhưng ngẫm lại, vậy thì, thế ra dù mới tỏ tình nhưng chàng trai đã coi cô gái như là người trong dòng họ của mình, chàng trai đã thấy có sự gần gũi, đồng cảm rất lớn giữa mình và cô gái, rằng “lòng vả cũng như lòng sung rồi”. Điều này dễ hiểu vì khi có “duyên” với nhau thì ngay ánh mắt đầu tiên người ta đã thấy người ấy như thân quen từ lâu lắm rồi. Hiểu như vậy bài ca dao có nét dễ thương, ý nhị mà chân tình vô cùng.

Tình yêu xuất phát từ tình cảm chân thực và sâu lắng như vậy nên nỗi nhớ nhung càng da diết, mặn nồng. Có ai yêu nhau mà không thương nhớ, có lẽ nỗi nhớ đã trở thành một đặc trưng bất biến của tình yêu. Với người lao động bình dân, nỗi nhớ được diễn đạt bằng lối liên tưởng thật giản dị mà tha thiết.

Khi nhớ mong, chủ thể trữ tình ra đứng bờ ao mà gửi nỗi niềm vào sự vật:

Đêm qua ra đừng bờ ao

Trông cá cá lặng trông sao sao mờ

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai

Buồn trông chênh chếch sao mai

Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ.

Người buồn nên cảnh vật cũng buồn, đến con cá, con nhện, ngôi sao như cũng đồng cảm với nỗi lòng của tác giả. Bằng sự nhân cách hóa tài tình, tác giả đã làm cho nỗi nhớ mong thấm đẫm và tan tỏa mênh mang trong không gian, cảnh vật.

Cũng bằng sự nhân hóa ấy, chủ thể trữ tình đã gửi nỗi niềm của mình vào chiếc khăn, ngọn đèn, đôi mắt trong một bài ca dao đầy niềm thương nhớ.

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên.

Với mô hình làng quên Việt Nam thì những biểu tượng như cây đa, bến nước, con đò, sân đình, bờ tre... đã trở nên quá đỗi thân quen. Ca dao thường dùng cặp hình ảnh thuyền – bến, cây đa – khách bộ hành, bến nước – người lữ khách... để nói về tình yêu nam nữ.

- Thuyền ơi có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

- Cây đa cũ bến đò xưa

Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ.

- Trăm năm đành lỗi hẹn hò

Cây đa bến cũ con đò khác đưa.

- Con đò với gốc cây đa

Cây đa muôn thuở chẳng xa con đò.

- Cây đa bậc cũ lỡ rồi

Đò đưa bến khác bạn ngồi chờ ai.

- Gọi đò chẳng thấy đò sang

Phải chăng bến cũ phụ phàng khách xưa.

Chỉ bằng những hình ảnh quen thuộc ấy thôi mà bao nhiều sự kiện, biến cố, bao nhiêu tình cảm, tâm trạng được tỏ bày. Chính nét đẹp này của ca dao mà sau này nhiều nhà thơ hiện đại đã kế thừa một cách thành công: Tản Đà có non – nước, Xuân Diệu có sóng – bờ, Xuân Quỳnh có thuyền – biển... Đây là lẽ thường vì như đã nói ở trên, dù ở thời đại nào tình yêu vẫn là một hằng số bất biến.

Tình yêu sâu nặng là thế nên khi tình yêu lỡ làng thì đau thương, tiếc nuối, đắng cay muôn phần. Có điều những tâm trạng ấy không phải được đề cập một cách trần trụi, ngược lại được chuyển tải hết sức tinh tế, tài hoa. Tỏ tình một người một cách, nhớ nhung một người một sắc độ nên đau khổ, tiếc nuối, oán trách cũng đa dạng, phong phú vô cùng. Có một điều dễ thấy là những lời tiếc nuối, than thở, oán trách thường là của người con trai khi người con gái sang ngang – “chim sáo sang sông”, tình yêu tan vỡ. Chàng trai cũng lấy những sự vật gần gũi trong đời sống làm đối tượng liên tưởng: người đào ao và con cá, người đắp đập, be bờ và người tháo nước, người xúc tép và con cò, người xây tường và người thắp hương chùa này, người trồng chanh và người hái quả v.v và v.v...

- Công anh đắp đập be bờ

Để ai tháo nước để lời anh trôi

- Công anh vạt tép nuôi cò

Cò ăn cò lớn cò dò lên cây

- Công anh xe chỉ uốn cần

Vì chưng biển động con cá lần ra khơi

- Công anh gánh gạch xây tường

Biết là có được thắp hương chùa này.

- Công anh đắp đập trồng chanh

Chẳng được hái quả vin cành cho cam.

- Công anh chăn nghé đã lâu

Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày.

- Công anh ngồi giữ buồng tằm

Đến khi tằm chín anh nằm buồng không.

- Tiếc công anh đào ao thả cá.

Ba bốn năm rồi người lạ tới câu.

- Ai đem con sáo sang sông

Để cho con sáo sổ lồng nó bay.

- Khi đi bóng hãy còn dài

Vì về bóng đã nghe ai bóng tròn...

Những hình ảnh ẩn dụ làm cho sự oán trách thêm phần cay đắng. Thế nhưng oán trách đấy mà lại yêu thương, tiếc nuối đấy. Làm sao được khi “thân em” chỉ là hạt mưa sa, hạt mưa rào, là giếng nước giữa đàng, là con hạc đầu đình, là con cá rô thia trong chậu... Chàng trai bày tỏ nỗi lòng cảm thông, thấu hiểu, tiếc nuối đối với cô gái hơn là sự đay nghiến, oán trách.

- Ai cho sen muống một bốn

Cho tuồng chanh khế sánh phường lựu lê.

- Ai làm cho bướm lìa hoa

Cho chim xanh nở bay qua vườn hồng

- Tiếc thay cái giếng nước trong

Để cho bèo tấm bèo ong lọt vào.

Trong những bài cao dao này, có một bài giàu hình ảnh biểu tượng, do vậy đã làm nên một sự tranh luận trong quá trình lần tìm về những lớp nghĩa của chủ thể - bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa”.

Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Cô có chồng anh tiếc lắm thay.

Hình ảnh liên tưởng gây nhiều tranh luận là “Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc”. Vấn đề là ở “nụ tầm xuân”. Cây tầm xuân mà ta thường thấy là loài hoa cùng họ với hoa hồng và khi nở hoa có màu hồng. Nhưng ở đây, chàng trai nói nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Hình ảnh đó cho ta sự liên tưởng gì? Nhiều người không tìm ra cơ chế liên tưởng nên giải thích: tầm xuân là từ để chỉ chung cho tất cả các loại hoa cỏ mọc ngoài đồng nội, vì vậy mà việc nụ tầm xuân nở ra xanh biếc là hết sức bình thường, không có gì lạ. Thế nhưng xin đưa ra một ngữ liệu để chúng ta thấy: vì sao nụ tầm xuân lại nở ra xanh biếc?

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím

Em có chồng rồi trả yếm cho anh

- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh

Yếm em thì em mặc yếm gì anh mà anh đòi.

Chàng trai nói một chuyện rất lạ là “hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím”, thế nhưng chuyện lạ đó còn có thể tin và chấp nhận được bởi lẽ trên đời này bên cạnh hoa cúc vàng còn có hoa cúc tím. Thế nhưng với cô gái thì sự khẳng định càng chanh chua hơn bởi có điều còn lạ hơn cả chuyện “hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím”, đó là chuyện “hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh” mà sự thực trên đời làm gì có chuyện hoa cúc xanh. Thế nên, ở đây cô gái sâu cay kia muốn nói với chàng trai rằng: Chàng kia ơi, có những chuyện còn lạ hơn thế kia kìa. Thật thâm thúy mà giàu hình ảnh biểu cảm vô cùng!

Thế nên, trở lại bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa”, ta thấy sẽ là không đâu khi đi đặt câu hỏi: Tại sao bước xuống vườn cà mà lại hái nụ tầm xuân? Nụ tầm xuân sao lại ở vườn cà? (theo nghĩa tầm xuân là một họ của hoa hồng). Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc là chuyện lạ nhưng chính vì chuyện lạ này mà chàng trai muốn nói một điều: sự đổi thay của cô gái. Cho nên mới có câu tiếp là: Cô có chồng anh tiếc lắm thay.

Bên cạnh nhiều bài ca dao của các chàng trai tiếc nuối, oán trách, cay đắng cho mối tình của mình, có một bài ca dao sử dụng quan hệ liên tưởng thật hay của các cô gái nói về chàng trai:

Em tưởng giếng nước sâu

Em nối sợi gàu dài

Nào ngờ giếng nước cạn

Em tiếc  hoài sợi dây.

Rõ ràng, ở đây không ai chỉ hiểu tác giả dân gian đi nói chuyện giếng sâu, giếng cạn; gàu dài, gàu ngắn. Có điều tại sao lại là “giếng nước”. Quả thực đây là sự lựa chọn hết sức đặc sắc và có giá trị biểu đạt cao. Ta từng nghe dân gian nói một cách thiếu dân chủ:

Đàn ông nông cạn giếng khơi

Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.

Vậy nên cô gái mới “tưởng”, giếng nước sâu. Cách nói quá đỗi khéo léo, thâm thúy: em nghe ông cha nói “Đàn ông nông cạn giếng khơi”, em tưởng tình cảm của anh cũng sâu sắc và chân tình lắm... Thế nên mới có chuyện “tiếc hoài sợi dây”. Chàng trai tinh tế và nhạy cảm hẳn phải rất đau đầu trước cách nói của “nàng”.

Những bài ca dao trên đây nói về những cuộc giao duyên, dầu có được thể hiện dưới nhiều tình huống tâm trạng có khác nhau đi nữa, nhưng cũng đều tuyệt vời diễn tả nỗi khát vọng tình yêu lứa đối với những lời tỏ tình có khi xa xôi bóng bẩy, lấp lửng, có khi mộc mạc bộc trực hoặc những thở than oán trách. Đó chính là cái hay, cái đẹp trong ca dao về tình yêu nam nữ và giao duyên trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Có ý kiến cho rằng: Chủ thể trữ tình của ca dao khi cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ; nhưng khi cảm nghĩ về những người thương mến, về những nơi, những vật thân thuộc là thấy yêu, thấy thương...”.

Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua những bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

Gợi ý :

1. Giới thiệu khái quát về ca dao và nêu được nhận định về nội dung của ca dao trữ tình.

2. Giải thích nhận định:

- Chủ thể trữ tình (tác giả ca dao) là người bình dân, nhân dân lao động, sống trong cuộc đời trăm đắng, ngàn cay nhưng đằm thắm ân nghĩa bên gốc đa, giếng nước, sân đình... Và tác phẩm của họ cũng được sinh ra từ cuộc đời ấy. Nó phản ánh cuộc đời, tâm tình của người bình dân.

- Chủ thể trữ tình của ca dao khi cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ. Họ cất lên những tiếng nói than thở về những nỗi bất hạnh của mình: than về phận khó, về nỗi cơ cực, về lỡ duyên, ...

- Chủ thể trữ tình khi cảm nghĩ về những người thương mến về những nơi, những vật thân thuộc là thấy yêu, thấy thương... Họ cất lên câu hát yêu thương, tình nghĩa chứa chan tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đình, quê hương đất nước...

--> Nhận định đã khái quát được hai nội dung chủ yếu của ca dao trữ tình: Nỗi xót xa, đắng cay và tình cảm yêu thương, thủy chung, đằm thắm ân tình của người bình dân trong xã hội cũ.

3. Phân tích, chứng minh nhận định:

a. Chủ thể trữ tình của ca dao khi cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ (Những bài ca dao than thân).

- Họ thường là những người phụ nữ sống trong xã hội cũ:

+ Ý thức được vẻ đẹp riêng, giá trị của mình (“tấm lụa đào”: vẻ đẹp duyên dáng, mềm mại, xuân sắc, quý giá..., “củ ấu gai” - “ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen”: vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn). (0,5đ)

+ Xót xa cho thân phận nhỏ bé, đắng cay, tội nghiệp (Thân em...) nhưng nỗi đau khổ của từng người lại mang những nét riêng (“tấm lụa đào”: đẹp nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, không tự quyết định được số phận của mình; “củ ấu gai”: có phẩm chất tốt đẹp bên trong nhưng không được ai biết đến, vẻ đẹp ấy bị che phủ bởi cái bề ngoài xấu xí, đen đủi...) (0,5đ)

- Họ có thể là những chàng trai, cô gái lỡ duyên, hoặc bị ép duyên mà tình yêu dang dở. Vì thế, tiếng thơ như lời trách móc, oán giận, đầy xót xa, cay đắng (Trèo lên cây khế nửa ngày/Ai làm chua xót lòng này khế ơi!...)

b. Nhưng khi cảm nghĩ về những người thương mến, về những nơi, những vật thân thuộc là thấy yêu, thấy thương (Những bài ca dao yêu thương, tình nghĩa)

- Đó là nỗi nhớ người yêu của cô gái được gửi vào hình ảnh: khăn, đèn, mắt... Hỏi khăn, đèn, mắt cũng là hỏi lòng mình. Cô gái ra ngẩn vào ngơ, bồn chồn, thao thức với bao vấn vương, lo âu, phấp phỏng cho hạnh phúc lứa đôi (Khăn thương nhớ ai...)

- Có khi, người con gái mượn chiếc cầu dải yếm để nói lên mơ ước mãnh liệt của mình trong tình yêu. Một lời tỏ tình kín đáo, ý nhị, duyên dáng mà rất táo bạo. (Ước gì sông rộng một gang...)

- Họ mượn hình ảnh muối, gừng để diễn tả sự gắn bó sâu nặng của con người. Độ mặn của muối, độ cay của gừng còn có hạn nhưng tình cảm con người mãi son sắt, thủy chung. (Muối ba năm muối đang còn mặn...)

4. Đánh giá, mở rộng:

- Những câu hát than thân, yêu thương tình nghĩa đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của người bình dân xưa: trong cuộc sống còn nhiều vất vả, cơ cực, đắng cay, họ vẫn sống ân nghĩa, đằm thắm tình người, vẫn luôn khát khao tình yêu, hạnh phúc.

- Người bình dân đã lựa chọn những hình thức nghệ thuật riêng, đậm màu sắc trữ tình dân gian: thể thơ lục bát, song thất lục bát; hình thức đối đáp; công thức mở đầu “Thân em...”, “Trèo lên...”; hình ảnh biểu tượng, cách so sánh, ẩn dụ...

4. Củng cố

- Ý nghĩa, giá trị của văn học dân gian với đời sống tâm hồn con người.

- Văn học dân gian bồi đắp những tình cảm cao đẹp cho con người: tình yêu nước, yêu con người, tình yêu đôi lứa....

5. Dặn dò

- Học bài cũ.

- Chuẩn bị bài : Khái quát sử thi và sử thi Đăm Săn.

Ngày soạn : 06/10/2017

TIẾT 25-26.

KHÁI QUÁT SỬ THI VÀ SỬ THI “ĐĂM SĂN”

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Đọc (kể) diễn cảm tác phẩm sử thi.

- Phân tích văn bản sử thi theo đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất :

- Bài học này giúp các em nhận thức được lẽ sống cao đẹp của mỗi cá nhân : phấn đấu hy sinh vì danh dự, hạnh phúc yên vui của cộng đồng. Đây là ý nghĩa mãi mãi của sử thi Đăm Săn nói riêng và sử thi anh hùng nói chung.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP

Gv kết hợp phương pháp thực hành, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, so sánh, tổng hợp.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ SỬ THI

1. Về khái niệm sử thi

Sử thi là những tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hay nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại.

Có hai tiểu loại sử thi dân gian:

-       Sử thi thần thoại là loại sử thi kể về sự hình thành thế giới, sự ra đời của muôn loài, sự hình thành các dân tộc, các vùng cư trú thời cổ đại của họ hoặc cũng có khi kể về sự xuất hiện nền văn minh buổi đầu. Ở nước ta có một số bộ sử thi tiêu biểu cho tiểu loại này như: Đẻ đất đẻ nước (Mường), Ẳm ệt luông (Thái), Cây nêu thần (Mơ-nông),…. 

-       Sử thi anh hùng là những câu chuyện kể về cuộc đời và những chiến công hiển hách của người anh hùng – người đại diện cao nhất cho sự giàu có, quyền lực, sức mạnh và ước mơ của cộng đồng người thời cổ đại. Các tác phẩm tiêu biểu trong tiểu loại này là: Đam Săn, Đăm Di, Xing Nhã, Khinh Dú (Ê- đê); Đam Noi (Ba- na),…. Trong số những tác phẩm này thì tác phẩm được biết đến rộng rãi và nổi tiếng hơn cả là sử thi Đam Săn.

2. Cách đọc hiểu văn bản sử thi

2.1. Đọc hiểu văn bản văn học dân gian theo đặc trưng thể loại

- Trong văn học dân gian, sự ra đời của thể loại là do thời đại quy định. Thần thoại ra đời trong lòng xã hội nguyên thủy, khi mà con người còn rất lạc hậu, đời sống còn phụ thuộc vào tự nhiên, chưa tách khỏi tự nhiên. Họ có khát vọng giải thích tự nhiên, khám phá quan hệ con người – tự nhiên nhưng sự giải thích đó còn mang tính thô sơ, xuất phát từ sự quan sát các hiện tượng tự nhiên thực tế. Sử thi ra đời ở thời cổ đại, khi các thành viên xã hội sống thành thị tộc. Chỉ có sống trong thị tộc, mỗi cá nhân mới thấy mình có đủ sức mạnh để làm lụng, chiến đấu và hưởng hạnh phúc. Họ có nhu cầu phản ánh mỗi quan hệ giữa cá nhân – cộng đồng.
2.2. Cách đọc hiểu văn bản sử thi trong nhà trường
Sử thi Tây Nguyên lộng lẫy và hùng tráng- như chính núi rừng cao nguyên hùng vĩ nơi đã sản sinh ra chúng- thực là một kho tàng quý báu và xứng đáng tiêu biểu cho sử thi của một cộng đồng dân tộc thống nhất mà đa dạng nhiều bản sắc. Trong quá trình hướng dẫn HS, cần tập trung vào 2 vấn đề chủ yếu trong đặc trưng của thể loại sử thi. Đó là: 
- Nhân vật trung tâm của sử thi là người anh hùng – mang sức mạnh, lí tưởng, khát vọng đại diện cho sức mạnh, lí tưởng, khát vọng của cả cộng đồng. 
- Nghệ thuật sử thi: ngôn ngữ giàu nhạc điệu (ngôn ngữ giàu hình ảnh so sánh, phóng đại; ngôn ngữ trùng điệp, kết cấu đối xứng; ngôn ngữ kịch), hình thức diễn xướng. 

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ SỬ THI “ĐĂM SĂN”

1. Tóm tắt sử thi “Đăm Săn” 

Bài ca Ðam San gồm 7 chương khúc

 1. Chị em Hơ Nhí, Bhí theo luật tục của xã hội mẫu quyền  (tục chuê nuê) lấy Ðam San làm chồng, Ðam San tỏ ý không thuận.

 2. Ðam San bỏ vê nhà chị Hơ Âng, đến khi bị trời (đu & điê) làm chết đi sống lại 7 lần & cứu được Hnhí bị voi nhà nổi điên tha vào rừng, Ðam San mới thuận.

 3. Ðam San đánh tù trưởng Mtao Grư (kên kên) giành lại Hnhí, bắt tù binh, đoạt của cải.

 4. Ðam San đi phát rẫy, lên rừng săn thú, xuống suối bắt tôm cá, đánh thắng tù trưởng Mtao Mxây (sắt)

 5. Ðam San chặt cây thần Smuk, cây đổ, chị em Hnhí, Bhí chết, Ðam San lên trời toan chặt đầu trời, được trời giúp cho vợ sống lại.

 6. Ðam San đi bắt nữ thần mặt trời để trở thành người tù trưởng giàu có, đâu cũng khâm phục, bị từ chối, Ðam San trở về chết chìm dưới đất nhão trong rừng Sáp đen.

 7. Vía Ðam San hóa ruồi bay vào miệng Hơ Âng. Ðam San cháu ra đời thừa kế của cải, quyền lực cậu và tiếp tục nối dây.

2. Vị trí đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây

Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây thuộc phần giữa của tác phẩm: Sau khi về làm chồng hai chị em tù trưởng Hơ Nhị và Hơ Bhị, Đam Săn trở nên một tù trưởng giàu có và uy danh lừng lẫy. Các tù trưởng Kên Kên(Mtao Grứ) và tù trưởng Sắt (Mtao Mxây) lừa lúc Đam Săn cùng các nô lệ lên rẫy, ra sông lao động sản xuất đã kéo người tới cướp phá buôn làng của chàng và bắt Hơ Nhị về làm vợ. Cả hai lần ấy Đam Săn đều tổ chức đánh trả và chiến thắng, vừa cứu được vợ lại vừa sáp nhập được đất đai, của cải của kẻ địch khiến cho oai danh của chàng càng lừng lẫy, bộ tộc càng giàu có và đông đúc hơn.

Đoạn trích ngợi ca cuộc chiến đấu của Đam Săn. Đó là cuộc chiến đấu vì danh dự, vì hạnh phúc gia đình và hơn nữa vì cuộc sống bình yên và sự phồn vinh của thị tộc. Đoạn trích này tiêu biểu cho những đặc trưng của thể loại sử thi anh hùng.

3. Nội dung của đoạn trích “ Chiến thắng Mtao Mxây “.

Cuộc chiến giữa hai tù trưởng thể hiện qua các chặng như sau:

– Đăm Săn khiêu chiến và Mtao Mxây đáp lại: Trước thái độ quyết liệt của Đăm Săn, Mtao Mxây tỏ ra run sợ

– Vào cuộc chiến:

+ Hiệp 1: Trong khi Mtao Mxây múa khiên trước thì Mtao Mxây vẫn giữ thái độ bình tĩnh, thản nhiên.

+ Hiệp 2: Đăm Săn múa khiên trước và lập tức Mtao Mxây trốn chạy bước cao bước thấp.Hắn chém Đăm Săn nhưng trượt và vội cầu cứu Hơ Nhị quăng cho miếng trầu. Được miếng trầu Hơ Nhị tiếp sức Đăm Săn mạnh hẳn lên.

+ Hiệp 3: Đăm Săn múa và đuổi theo Mtao Mxây và đâm trúng kẻ thù nhưng áo hắn không thủng và cầu cứu thần linh.

+ Hiệp 4: Đăm Săn được thần linh giúp sức, đuổi theo và đâm chết kẻ thù.

– Cuộc đối thoại giữa Đăm Săn với dân làng(nô lệ) của Mtao Mxây khi chàng đến từng nhà kêu gọi mọi người đi theo mình.

– Thể hiện sự thống nhất cao độ giữa quyền lợi, khát vọng của cá nhân anh hùng sử thi với quyền lợi, khát vọng của cộng đồng.(họ sống hòa hợp trong một nhóm đông hơn, giàu hơn, mạnh hơn).

– Thể hiện lòng yêu mến, sự tuân phục của tập thể cộng đồng đối với cá nhân anh hùng. Qua đó, sử thi muốn nói đến ý chí thống nhất của toàn thể cộng đồng E đê-một biểu hiện quan trọng của ý thức dân tộc.

– Sử  dụng lối so sánh: so sánh tương đồng, có sử dụng từ so sánh(như gió lốc gào..). khi là lối so sánh tăng cấp bằng hàng loạt so sánh liên tiếp( miêu tả tài múa khiên của Đăm Săn, đoàn người đông đảo, thân hình lực lưỡng của Đăm Săn). So sánh tương phản(múa khiên của Đăm Săn và Mtao Mxây). Các hình ảnh, sự vật được đem ra làm chuẩn trong so sánh đều lấy từ thế giới thiên nhiên, từ vũ trụ. Dùng vũ trụ để “đo” kích cỡ nhân vật anh hùng là một cách phóng đại để đề cao anh hùng. Nghệ thuật đó rất nổi bật ở sử thi, mang một giá trị thẩm mĩ đặc biệt. Đó là phong cách nghệ thuật của sử thi.

III. BÀI TẬP VẬN DỤNG

1. Tóm tắt diễn biến trận đánh theo đúng trật tự của các tình tiết và sự kiện

a) Đam Săn đến nhà Mtao Mxây khiêu chiến nhưng Mtao Mxây còn bỡn cợt chàng mà chưa chịu giao chiến ngay.

b) Bước vào cuộc chiến:

Hiệp đấu thứ nhất

-       Hai bên lần lượt múa khiên.

+         Mtao Mxây múa trước: tỏ ra yếu ớt và kém cỏi

+         Đam Săn múa khiên: tỏ ra mạnh mẽ, tài giỏi hơn

-       Kết quả hiệp đấu: Mtao Mxây chạy khắp nơi để tránh đường khiến Đam Săn múa.

Hiệp đấu thứ hai

-       Đam Săn múa khiên: sức mạnh như gió bão. Cây giáo đâm liên tiếp Mtao Mxây nhưng không thủng.

-       Kết quả

+         Đam Săn nhờ sự giúp đỡ của Ông Trời đã cắt được đầu của Mtao Mxây.

+         Dân làng Mtao Mxây nhất loạt theo Đam Săn về ngôi làng mới.

2. Cuộc chiến giữa Đam Săn và Mtao Mxây là cuộc chiến tranh mang tính chất thống nhất cộng đồng. Nó không phải là một cuộc chiến tranh xâm lược nhằm mục đích tàn sát, cướp bóc và chiếm giữ. Chính vì thế mà thái độ của nô lệ ở cả hai phía đối với việc thắng thua của hai tù trưởng cũng có những nét riêng:

-       Ở phía Mtao Mxây: Sau khi tù trưởng của mình thất bại, đông đảo nô lệ đều tâm phục và nghe theo lời vị tù trưởng mạnh hơn (“không đi sao được!… người nhà giàu cầm đầu chúng tôi nay đã không còn nữa”).Thái độ và hành động của đoàn người này chứng tỏ họ luôn mơ ước được trở thành một tập thể giàu có và hùng mạnh.Họ luôn mơ ước có được một người lãnh đạo dũng cảm, tài ba.

-       Ở phía Đam Săn: Dân làng tưng bừng náo nhiệt chào đón vị anh hùng của mình mới chiến thắng trở về. Họ đi lại sửa soạn vui mừng tấp nập không chỉ để mừng buôn sóc được mở mang, được hùng mạnh và giàu có mà còn để tiếp đón những người nô lệ mới bằng sự chân thành và hoà hợp (“... Các chàng trai đi lại ngực đụng ngực. Các cô gái đi lại vú đụng vú. Cảnh làng một tù trưởng nhà giàu trông sao mà vui thế!”).

3. Đoạn trích tuy miêu tả cuộc chiến tranh giữa các thị tộc trong thời nguyên thuỷ, thế nhưng lại không chú trọng miêu tả cảnh chết chóc đau thương. Trái lại, tác giả dân gian chủ yếu miêu tả cảnh chiến thắng tưng bừng của phía Đam Săn. Cuộc chiến dừng lại khi Mtao Mxây thất bại. Thế nhưng sự thất bại của Mtao Mxây không làm cho dân làng lo sợ, hoang mang. Họ ngay lập tức theo về phía Đam Săn, hoà nhập với cuộc đồng mới một cách rất tự nhiên. Dân làng của Đam Săn cũng vậy, họ đón tiếp những ng­ười bạn mới rất chân tình. Không khí của buổi tiệc sau chiến thắng tưng  bừng náo nhiệt vui say không hề có một chút gợn nào. Lựa chọn cách thể hiện nghệ thuật này, tác giả dân gian đã  nhận ra tính tất yếu của cuộc chiến tranh thị tộc - đó là cuộc chiến tranh không kìm hãm sự phát triển của xã hội Ê-đê, mà trái lại, nó giúp những tập thể lẽ tẻ, rời rạc tập hợp thành những tập thể lớn hơn, mạnh hơn. Và cũng chỉ nh­ư vậy, họ mới trở thành một dân tộc trư­ởng thành thực sự. Cách lựa chọn để hiện nghệ thuật ấy cũng là cách để dân gian ngợi ca tầm vóc và sứ mệnh lịch sử của ngư­ời anh hùng. Chỉ có những con người ­ưu tú của thời đại như­ vậy mới đủ sức đứng lên thống nhất các thị tộc nhỏ lẻ lại với nhau, gom những thị tộc ấy lại thành một cộng đồng lớn mạnh và giàu có.

4. Trong đoạn trích này, kiểu câu được dùng nhiều nhất là kiểu câu có sử dụng biện pháp so sánh, ví von.Những câu ấy, hoặc chứa biện pháp so sánh kiểu tương đồng (chàng múa trên cao, gió như bão; chàng múa dưới thấp, gió như lốc; đoàn người đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối...), hoặc so sánh kiểu tăng cấp (Đam Săn múa khiên), cũng có trường hợp so sánh kiểu tương phản (đối lập giữa cảnh múa khiên của Đam Săn và Mtao Mxây). Những câu văn theo kiểu đòn bẩy này có giá trị rất lớn trong việc miêu tả nhân vật người anh hùng. Nó khẳng định và nâng bổng lên tài năng, sức mạnh của Đam Săn - người anh hùng uy danh lừng lẫy làm mờ đi cả sự giàu có và sức mạnh của kẻ thù.

Cần lưu ý thêm, nếu chúng ta tiến hành phân loại thì có thể thấy rất rõ ràng: các hình ảnh, sự vật được đem ra để so sánh ở đây đều lấy ra từ thế giới tự nhiên, từ vũ trụ. Như thế hàm ý của tác giả là muốn lấy vũ trụ để "đo" kích cỡ, tầm vóc của nhân vật anh hùng. Thủ pháp nghệ thuật này là một thủ pháp quen thuộc của sử thi. Nó giúp mang lại những giá trị thẩm mỹ rất đặc trưng cho thể loại này: đặc trưng về sự trang trọng, hoành tráng và dữ dội.

5. Sự xuất hiện của Ông Trời (thần linh) và việc can thiệp của Ông Trời vào chiến thắng của Đam Săn chứng tỏ ở thời kì ấy, con người và thần linh gắn bó mật thiết với nhau. Hay nói cách khác, nó là dấu vết của tư duy thần thoại trong sử thi, dấu vết của một xã hội chưa có sự phân hóa giai cấp rạch ròi. Tuy nhiên cũng từ câu chuyện này có thể nhận thấy, dù có can thiệp vào công việc của con người nhưng thần linh chỉ đóng vai trò là người "cố vấn", "gợi ý" hành động chứ không phải là người quyết định tối cao kết quả của cuộc chiến. Như vậy trong mối quan hệ với các thần, người anh hùng vẫn giữ được vai trò quyết định và có tính độc lập riêng. Sắp đặt câu chuyện theo kiểu như vậy cũng là một hình thức đề cao vai trò của nhân vật anh hùng, đề cao tinh thần dân chủ của thời thị tộc cổ xưa.

IV. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Phân tích cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.

4. Củng cố :

- Khái quát thể loại sử thi.

- Những kiến thức cơ bản về sử thi “Đăm Săn”.

5. Dặn dò

- Đọc lại đoạn trích, học thuộc các dẫn chứng tiêu biểu.

- Chuẩn bị bài : “Chiến thắng Mtao Mxây”.

Ngày soạn : 07/10/2017

TIẾT 27-28.

CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY

(Trích sử thi “Đăm Săn” – sử thi Tây Nguyên)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Đọc (kể) diễn cảm tác phẩm sử thi.

- Phân tích văn bản sử thi theo đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất :

- Bài học này giúp các em nhận thức được lẽ sống cao đẹp của mỗi cá nhân : phấn đấu hy sinh vì danh dự, hạnh phúc yên vui của cộng đồng. Đây là ý nghĩa mãi mãi của sử thi Đăm Săn nói riêng và sử thi anh hùng nói chung.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP

Gv kết hợp phương pháp thực hành, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, so sánh, tổng hợp.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

ĐỀ 1. Phân tích cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây.

Gợi ý :

Từ bao đời nay, người Ê-đê đã cùng quây quần bên bếp lửa, nghe không biết chán từ đêm này sang đêm khác khan Đăm Săn, bài ca về người tù trưởng anh hùng của dân tộc mình với những chiến công hiển hách trong xây dựng phát triển buôn làng và bảo vệ cộng đồng chống lại bao kẻ thù hung hãn. Trong những chiến công lẫy lừng ấy, ngất ngây lòng người vẫn là đoạn Chiến thắng Mtao Mxây, chứng tỏ tài năng, bản lĩnh, lòng dũng cảm phi thường và sức mạnh vô địch của Đăm Săn.

a.  Nguyên nhân chiến tranh

Tù trưởng Mtao Mxây lừa lúc Đăm Săn cùng dân làng làm rẫy, đã kéo đến cướp phá buôn làng và bắt Hơ Nhị về làm vợ. Danh dự của một tù trưởng và bộ tộc bị xúc phạm, hạnh phúc của gia đình và buôn làng bị đe doạ, người anh hùng Đăm Săn buộc phải cầm khiên, giáo đứng lên chiên đấu.

Cuộc chiến đấu của Đăm Săn là cuộc chiên đấu chính nghĩa, vì thế, dân làng theo chàng đi đánh Mtao Mxây. Đăm Săn không chỉ có sức khoẻ, võ nghệ cao cường, có khiên giáo trong tay mà còn có cả chính nghĩa, lí tưởng chiên đấu nên đã được tiếp thêm sức mạnh để quyết chiên quyết thắng.

b. Diễn biến trận đánh

Đăm Săn khiêu chiến và thái độ ngạo mạn của Mtao Mxây :

+ Nếu như Mtao Mxây hèn hạ, lừa lúc Đăm Săn và dân làng đi àm rẫy để cướp phá thì Đăm Săn đến tận nhà Mtao Mxây lúc hắn đang ở nhà, gọi hắn xuống để giao chiến. Mtao Mxây là một tù trưởng hung bạo, một tên kẻ cướp ; còn Đăm Săn là tù trưởng anh hùng, tư thế và hành động đàng hoàng. Sự kiện Đăm Săn tới nhà Mtao Mxây khiêu chiến thể hiện sự tương phản trong nhân cách hai nhân vật này.

Chàng gọi Mtao Mxây là “diêng” với hàm ý mỉa mai. (Diêng : chỉ người bạn kết nghĩa). Đăm Săn và Mtao Mxây đã từng là “diêng” của nhau, là bạn kết nghĩa của nhau. Thế mà nay Mtao Mxây đến cướp phá buôn làng của Đăm Săn, cướp vợ của Đăm Săn. Mtao Mxây là kẻ phản bội tình bạn. Vì thế không thể nói chuyện bằng lời mà phải “đọ dao” mới giải quyết được.

+ Lúc đầu, Mtao Mxây từ chối. Là kẻ gây tội ác nên hắn tỏ ra sợ hãi trước lời đe doạ trừng phạt, nhưng vẫn trắng trợn chọc tức Đăm Săn : “Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà”.

+ Như lửa đổ thêm dầu, thái độ ngạo mạn của Mtao Mxây khiến Đăm Săn nổi cơn thinh nộ. Lời của Đăm Săn như ra lệnh, quyết liệt hơn lần trước : “Xuống đi, ơ Diêng…”.Thái độ của Đăm Săn rất dứt khoát, dồn kẻ thù vào cuộc giao đấu. Mtao Mxây phải lựa chọn một trong hai con đường : một là chết thiêu cùng với ngôi nhà, hai là bước vào giao đấu.

+ Mtao Mxây tỏ ra rất tầm thường, hắn từ trên sàn nhà xuống với nỗi lo bị đánh lén. Nhưng Đăm Săn đàng hoàng, không thèm đâm “con lợn nái… dướị đất”, không thèm đâm “con trâu… trong chuồng”, chỉ đâm kẻ thù khi chúng đang múa khiên và tay đang cầm giáo, cầm gươm.

+ Mtao Mxây hiện ra với dáng vẻ dữ tợn như một vị ác thần, tay cầm khiên “tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng”, lòng đầy lo sợ, nên “tần ngần do dự, mỗi bước mỗi đắn đo”. Nhưng hắn vẫn phải bước vào cuộc giao đấu.

Hiệp đấu thứ nhất :

+ Vào cuộc giao đấu, Đăm Săn với tinh thần thượng võ, nhường cho địch thủ quyền chủ động tẩn công. Mtao Mxây đùn đây, cất lời huênh hoang để đánh đòn tâm lí với Đăm Săn. Hắn khoe sức mạnh, khỏe miếng võ của hắn là võ gia truyền, học được từ thần thánh, thậm chí còn đem khoe cả bản chất tàn bạo của mình với mục đích uy hiếp Đăm Săn.

Mtao Mxây đánh múa khiên, tỏ ra rất kém cỏi  khiến cho Đăm Săn thấy buồn cười, phải cất tiếng mỉa mai : “Ngươi múa chơi đây phải không, diêng?”.

Trước sức mạnh tấn công của Đăm Săn, hắn chỉ biết chạy, khi tung đòn lại không trúng đích. Kẻ tàn bạo phi nghĩa thật thảm hại khi đối mặt với người anh hùng vượt trội về tài năng và phẩm chất, chiên đâu vì chính nghĩa.

+ Đăm Săn vào trận với tư thế của người anh hùng, với tư cách người đi hỏi tội và trừng phạt kẻ có tội. Chàng chiến đấu để bảo vệ danh dự, cứu vợ và bảo vệ yên bình cho bộ tộc. Sức mạnh của chàng chính là sức mạnh của cộng đồng, được kết tinh từ những khát vọng, ước mong cho cuộc sống bình yên, thịnh vượng. Tác giả dân gian đã thể hiện sức mạnh của dũng sĩ Đăm Săn trong cảm hứng sử thi đẫm chất hùng ca. cảnh Đăm Săn múa khiên được miêu tả đầy hào hứng :

“Đăm Săn rung khiên múa. Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốíc tới nữa, chàng vượt một đồi lổ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”.

Sức mạnh của Đăm Săn trong trận chiên đấu có thể ví với sức manh của tự nhiên, trời đất và vũ trụ.

+ Cuộc chiến diễn ra rất quyết liệt. Mtao Mxây đã đuốĩ sức, hắn bảo Hơ Nhị quăng cho hắn một miêhg trầu. Nhưng Đăm Săn nhanh hơn đoạt được miếng trầu ấy. Chàng nhai trầu và sức lực tăng lên gấp bội, chàng tiếp tục chiến đấu với sức mạnh mới.

Sự xuất hiện của nàng Hơ Nhị và miếng trầu vào thời điểm cuộc chiến đang quyết liệt có ý nghĩa đặc biệt. Nàng là vợ chính thức của Đăm Săn. Nay nàng đang lâm vào cảnh bị bắt cóc. Đối với Mtao Mxây, nàng chỉ là một thứ của cải mà hắn đoạt được sau vụ cướp bóc chứ giữa nàng và hắn không có chút tình nghĩa vợ chồng. Miếng trầu “nên duyên vợ chồng” của Hơ Nhị với Đăm Săn không thể trao vào tay kẻ thù. Hơ Nhị trở thành trợ thủ trao vật thần kì cho Đăm Săn. Tình yêu đã tiếp thêm sức mạnh cho chàng, chàng phóng giáo trúng đùi Mtao Mxây nhưng không thủng.

Hiệp đấu thứ hai :

+ Đăm Săn đã làm tất cả những gì có thể nhưng chưa giành được chiến thắng vì Mtao Mxây được bảo vệ bởi lớp áo giáp sắt. Đăm Săn thấm mệt, chàng vừa chạy vừa ngủ, mộng thấy ông Trời. Chi tiết này có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện quan niệm về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân vật anh hùng chống lại đối thủ luôn được sức mạnh siêu nhiên trợ giúp. Chi tiết trợ giúp của ông Trời rất gần với sự tham gia của các vị thần trên đỉnh ô-lim-pi-a vào cuộc chiến thành Tơ-roa được ghi lại trong hai trường ca I-li-át và Ô-đi-xê.

+ Hiệp đấu thứ hai kết thúc với chiến thắng vẻ vang của Đăm Săn. Mtao Mxây thất thế chạy trốn thật thảm hại. Hắn rúc vào cả chuồng lợn, chuồng trâu và cất lời cầu xin Đăm Săn :

“ơ diêng, ơ điêng, để ta làm lễ cầu phúc cho điêng một trâu ! Ta cho thêm díêngmột voi.”.

+ Trước khi đâm chết và cắt đầu Mtao Mxây đem bêu ngoài đường, Đăm Săn đã tuyên án hắn. Tội ác của Mtao Mxây trời không dung, đất không tha, dù ở thời nào con người cũng không chấp nhận. Hắn đáng bị trừng phạt như vậy. Việc bêu đầu hắn ngoài đường là để răn đe những kẻ nào rắp ranh phản bạn và cướp phá buôn làng. Hành động của Đăm Săn không thể hiện sự dã man, khát máu nên được dân chúng tán thành, ủng hộ.

ĐỀ 2. Phân tích cảnh ăn mừng chiến thắng trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.

Gợi ý :

1. Đăm Săn chiến thắng trở về 

a. Thái độ và hành động của Đăm Săn với tôi tớ của Mtao Mxây

Muc đích của cuộc chiến là bảo vệ danh dự của tù trưởng anh hùng, danh dự của bộ tộc, là để cứu vợ, trừng phạt kẻ cướp, đem lại sự yên ổn cho dân Mục đích cao cả ây, Đăm Săn đã đạt được. Chàng có thể kéo quân trở về trong hào quang chiến thắng.

Trong toàn bộ tác phẩm nói chung và trong đoạn trích nói riêng, qua lời người dẫn truyện và lời nói của Đăm Săn, không có chi tiết nào nói về việc Đăm  Săn gây chiếh để cướp bóc và chiếm đoạt nô lệ. Đó không phải là mục đích chiến đấu của chàng. Khi tù trưởng Mtao Mxây đã bị tiêu diệt, tôi tớ của hắn như rắn không đầu (họ cần một tù trưởng anh hùng bảo vệ và dẫn dắt, cần có một cộng đồng để hoà nhập, để có cuộc sống yên vui, thịnh vượng) ; Đăm Săn không cưỡng bức, không ép buộc tôi tớ của Mtao Mxây theo mình. Chàng kêu gọi và cho họ quyền tự định đoạt số phận của mình. Lòng nhân hậu, đức khoan dung của Đăm Săn đã giảm bớt nỗi đau khổ cho dân làng trong chiến tranh và hoàn toàn thuyết phục họ tự nguyện theo chàng.

b. Thái độ và hành động của tôi tớ, dân làng Mtao Mxây

Đây là chiến tranh giữa các nhóm đồng tộc, cho nên sau khi tù trưởng thù địch bị tiêu diệt thì tù trưởng chiến thắng có thể dung nạp tôi tớ của kẻ thù, cũng như người dân phía bên kia có thể hoà nhập vào bộ tộc mới một cách nhanh chóng.

Vì thế, khi nghe lời kêu gọi của Đăm Săn và cảm phục trước khí phách anh hùng, tài năng, sức manh của Đăm Săn, cảm mến đức khoan dung của chàng, tôi tớ, dân làng Mtao Mxây đã tự nguyện theo Đăm Săn để bắt đầu một cuộc sống mới. Tác giả dân gian miêu tả cảnh “chuyển nhà” của họ với một cảm xúc hào hứng, say mê :

“Đoàn người đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiên như mối. Bà con xem, thế là Đăm Săn nay càng thêm giàu có, chiêng lắm la nhiều. Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nừớc, như vò vẽ đi chuyên hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước”.

Qua đây, ta càng thấy vai trò quyết định của thủ lĩnh trong chiến tranh và đời sông xã hội thời bộ lạc, thấy được sự thông nhất cao độ giữa cá nhân anh hùng sử thi với cộng đồng bộ tộc.

2. Lễ ăn mừng chiến thắng

Trong đoạn trích có hai cảnh được miêu tả rõ rệt : cảnh chiến tranh và cảnh ăn mừng chiến thắng. Tác giả dân gian đã miêu tả cảnh ăn mừng chiến thắng với cảm hứng mê say, nhiệt thành, thể hiện thái độ, cách nhìn nhận về ý nghĩa thời đại của chiến tranh bộ tộc và tầm vóc lịch sử của người anh hùng sử thi trong sự phát triển của cộng đồng.

Lễ cúng người chết và thần linh, lễ ăn mừng chiến thắng

Đã có chiến tranh, tất yếu có đổ máu ỏ cả hai phía. Tác giả dân gian không miêu tả tỉ mỉ, rùng rợn cảnh máu đổ, nhưng người đọc phải ngâm hiêu điều này. Tưởng nhớ và biết ơn người hi sinh là việc nghĩa. Lễ cứng người chêt sau chiên thắng là một nghi lễ mang tính nhân đạo (đã được ông Trời, các vị thần linh và hương hồn của tổ tiên, ông bà tiếp thêm sức mạnh chiên thắng thì cũng phải biết ghi lòng tạc dạ). Lễ cúng thần linh, tạ ơn tổ tiên là nghi lễ tri ân rất thiêng liêng thể hiện ý thức xây đắp truyền thống của các tộc người Tây Nguyên.

Nghi lễ này mang ý nghĩa chiến tranh bộ tộc và tầm vóc lịch sử của người anh hùng trong sự phát triển của bộ tộc. Chiến tranh thời bộ tộc không nhằm hủy diệt sự sống mà là một việc tất yếu để bảo vệ và phát triển cuộc sống trong hoà bình. Vì vậy, sau chiến thắng của Đăm Săn, khi tiếng khiên giáo vừa dứt, cái ác, cái xâu, cái ti tiện, thấp hèn bị quét sạch, thì cuộc sống lại tưng bừng như hội.

Lễ vật cúng thần, cúng tổ tiên thật hậu để mong muốn những điều thánh thiện : cầu sức khoẻ, cầu bình yên, cầu thịnh vượng. Lễ ăn mừng thật tưng bừng, đầy đủ vật chất, sang trọng về tinh thần, tràn ngập niềm vui, cả một cộng đồng hoà nhập thành một khối trong niềm vui ở tương lai.

+ Tiếng cồng chiêng thể hiện sức mạnh tình thần, niềm vui sông của cộng đồng.

+ Khách khứa, dân làng, tôi tớ của Đăm Săn “đông nghịt” được đón tiếp trọng thể và ăn uống no say thoả thích.

Khẳng định tầm vóc lịch sử của người anh hùng trong sự phát triển của cộng đồng

Đăm Săn là niềm tự hào của bộ tộc, là kết tính vẻ đẹp, tài năng, sức manh, ý chí của cộng đồng. Trong bối cảnh của ngày hội chiến thắng, chàng hiện lên thật đẹp, vẻ đẹp của một dũng sĩ. Sức mạnh của Đăm Săn “ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tưa sâm dậy”. Đăm Săn có lòng dũng cam vô song, là một nhân cách vẹn toàn, luôn đi đầu trong công việc. Đăm Săn chiến thắng Mtao Mxây, chàng vừa bảo vệ được hạnh phúc gia đình, vừa mang lại sự giàu mạnh và uy danh cho cộng đồng.

Đăm Săn có sức lôi cuốn các nhân vật quần chúng. Mối quan hệ qua lại giữa vai trò của cá nhân và cộng đồng tạo nên ý nghĩa biểu trưng của hình tượng anh hùng sử thi : sức mạnh, lí tưởng của Đăm Săn biểu trưng cho sức mạnh và lí tưởng của cộng đồng.

3. Những điểm nổi bật về nghệ thuật sử thi thể hiện trong đoạn trích

Nghệ thuật xây dựng nhân vật sử thi

Mỗi nhân vật sử thi đều có vai trò đối với diễn biến của các sự kiện sử thi.

Nhân vật Mtao Mxây với hành động cướp bóc buôn làng của Đăm Săn, bắt cóc vợ Đăm Săn là nguyên nhân của cuộc chiến. Mtao Mxây thuộc loại nhân vật phản diện.

Nhân vật Đăm Săn là nhân vật trung tâm của sử thi, quyết định sự diễn biến của cốt truyện sử thi, có sức thuyết phục, lôi cuốn các nhân vật quần chúng.

Nhân vật ông Trời và Hơ Nhị đóng vai trò nhân vật trợ thủ của anh hùng. Ông Trời là nhân vật trợ thủ thần kì, Hơ Nhị là nhân vật trợ thủ trao vật thần kì. Hành động trợ thủ của những nhân vật này thê hiện quan niệm về cuộc chiến đấu chírth nghĩa của nhân vật anh hùng.

Nhân vật quần chúng đóng vai trò hậu thuẫn cho nhân vật anh hùng, bị lôi cuốn bởi những phẩm chất phi phàm của nhân vật anh hùng. Mối quan hệ giữa nhân vật anh hùng và nhân vật quần chúng tạo nên ý nghĩa biểu trưng : người anh hùng sử thi biểu trưng cho sức mạnh, lí tưởng của cả cộng đồng.

Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của sử thi anh hùng

Ngôn ngữ của người kể khá sinh động, lỉnh hoạt. Khi miêu tả nhà Mtao Mxây, chân dung Mtao Mxây, động tác chiến đấu và diễn biến của giao tranh, miêu tả vẻ đẹp của Đăm Săn, khung cảnh tôi tớ theo Đăm Săn và không khí lễ hội chiên thắng,.. ; tác giả dùng ngôn ngữ lúc thì trang trọng, giàu hình ảnh nhịp điệu, lúc thì dùng phép so sánh, phóng đại.

Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật được sử dụng nhiều và linh hoạt, giàu tính kịch. Những câu ra lệnh, kêu gọi tạo nên không khí hùng tráng.

Trong ngôn ngữ người kể chuyện có xen vào ngôn ngữ đối thoại của người kể để lôi cuốn người nghe, truyền cảm xúc cho người nghe.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Vẻ đẹp của nhân vật Đăm Săn trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.

4. Củng cố :

- Hình tượng nhân vật Đăm Săn trong trận chiến đấu với Mtao Mxây và trong cảnh ăn mừng chiến thắng.

- Đặc sắc nghệ thuật sử thi.

5. Dặn dò

- Đọc lại đoạn trích, học thuộc các dẫn chứng tiêu biểu

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 07/10/2017

TIẾT 29-30.

CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY

(Trích sử thi “Đăm Săn” – sử thi Tây Nguyên)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Đọc (kể) diễn cảm tác phẩm sử thi.

- Phân tích văn bản sử thi theo đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất :

- Bài học này giúp các em nhận thức được lẽ sống cao đẹp của mỗi cá nhân : phấn đấu hy sinh vì danh dự, hạnh phúc yên vui của cộng đồng. Đây là ý nghĩa mãi mãi của sử thi Đăm Săn nói riêng và sử thi anh hùng nói chung.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP

Gv kết hợp phương pháp thực hành, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, so sánh, tổng hợp.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1. Phân tích đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.

Bài làm :

                 Từ bao đời nay, người Ê-Đê đã cùng quây quần bên bếp lửa, nghe không biết chán từ đêm này sang đêm khác về câu chuyện Đăm Săn, bài ca về người tù trưởng anh hùng của dân tộc mình với những chiến công hiển hách trong xây dựng phát triển buôn làng và bảo vệ cộng đồng chống lại bao kẻ thù hung hãn. Trong những chiến công lẫy lừng ấy, ngất ngây lòng người vẫn là đoạn “Chiến thắng Mtao Mxây”. Ở đó, tài năng, bản lĩnh, lòng dũng cảm phi thường và sức mạnh vô địch của Đăm Săn thể hiện rõ nhất.
                Sở dĩ xảy ra cuộc chiến này là do Mtao Mxây (tù trưởng Sắt) đã cướp Hơ Nhị – vợ của Đăm Săn. Đối với người Ê-Đê theo chế độ mẫu hệ, việc bị kẻ thù cướp mất vợ là một nỗi sỉ nhục của cả cộng đồng. “Đánh thắng Mtao Mxây” là lần thứ hai Đăm Săn phải chiến đấu với kẻ thù để giành lại người vợ, chứng tỏ sự hùng mạnh của Đăm Săn. Chàng phải đối mặt với kẻ thù hung bạo và cũng có sức mạnh phi thường không kém. Hàng loạt những hình ảnh so sánh trong đoạn trích cho thấy rõ sự tương phản giữa Đăm Săn với kẻ thù, làm nổi bật lên sự hào hùng của chàng và sự thảm hại của Mtao Mxây. Đó chính là nét đặc sắc trong nghệ thuật đoạn trích này, tôn vinh vẻ đẹp người anh hùng Đăm Săn.
Vẻ đẹp Đăm Săn hiện rõ ngay từ khi chàng bước chân vào lãnh địa của Mtao Mxây. Tù trưởng Sắt hung bạo dù kiêu căng ngạo mạn cũng luôn phải dè chừng sự hiện diện của chàng. Hình ảnh Đăm Săn cùng những bạn bè đồng minh của chàng hiện lên dưới mắt kẻ thù thật dũng mãnh với khối màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp cùng khí thế hừng hực “Gươm sáng như mặt trời. Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi gấp ba mắt thường”. Hình ảnh so sánh thật đặc trưng đã làm đậm nét phi thường của người anh hùng. Tư thế ấy lại gắn liền hành động thách thức chặt ống tre thành ba khúc, xô đổ hàng rào hàm chứa sức mạnh tuyệt luân của chàng. Khi giáp chiến cùng Đam Săn, dù ngôn ngữ sử thi miêu tả Mtao Mxây cũng rất đẹp, rất dũng mãnh nhưng vẫn lộ ra sự khiếp nhược trước Đăm Săn. Lời nói của hắn với chàng lộ ra sự hèn nhát “đừng đâm ta lúc ta đang xuống nhé”. Đáp lại, Đăm Săn đã bộc lộ sự khinh bỉ kẻ thù bằng tư thế đàng hoàng của mình: “Tao không thèm đâm mày trước lúc mày xuống! Ngay con heo nái nhà mày tao cũng có thèm chém đâu!”.
Cuộc đối đầu của Đăm Săn với Mtao Mxây là giữa hai tù trưởng dũng mãnh. Phẩm chất anh hùng theo cách nhìn sử thi là ở sự chiến thắng bằng sức mạnh và sự can đảm. Cuộc đối đầu sinh tử ấy không có chỗ dung thân cho kẻ nào hèn nhát hơn. Trong tình cảm tôn vinh người anh hùng của buôn làng, mọi cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của Đăm Săn đều nổi bật, vượt trội hơn kẻ thù. Chúng ta cùng được chứng kiến màn thi tài múa khiên thú vị: Mtao Mxây thể hiện rõ sự khoác lác khi lời nói của hắn được minh chứng bằng “tiếng khiên kêu lộc cộc, lộp cộp như tiếng những quả mướp đập vào nhau”, còn Đăm Săn đã dập tắt nhuệ khí của hắn bằng sức mạnh phi thường trong màn múa khiên độc đáo. Ngôn ngữ sử thi khoa trương sức mạnh ấy ngang sức mạnh tự nhiên: “Một bước nhảy, chàng vượt qua mấy đồi tranh. Một bước lùi, vượt qua mấy đồi mía. Tiếng gió khiên rít vù vù như dông bão, cây cối nhà cửa ở xung quanh cũng nghiêng ngả”. Lần múa khiên thứ hai của chàng còn ghê gớm hơn bởi dồn chứa sức mạnh trừng phạt Mtao Mxây. Sức mạnh Đăm Săn có được còn nhờ sự trợ lực của người vợ Hơ Nhị khi nàng ném trầu và thuốc cho chàng để sức lực tăng lên gấp bội. 
Đăm Săn không hề đơn độc trong cuộc chiến vì danh dự này. Chính nghĩa thuộc về chàng khi các tù trưởng bạn hùng mạnh giúp chàng giành lại người vợ yêu quý. Đồng thời, chàng còn được sự trợ giúp của ông Trời. Người anh hùng sử thi luôn có mối quan hệ với lực lượng siêu nhiên. Trời đã giúp chàng đánh rơi áo giáp của Mtao MXây. Khi không còn áo sắt, hắn thật thảm hại và hèn nhát khi lần lượt chạy trốn vào chuồng heo, chuồng trâu, khi sắp chết lại buông ra những lời hèn nhát. Ông Trời chỉ đóng vai trò hỗ trợ Đăm Săn, còn chính chàng mới là người kết liễu kẻ thù, đòi lại danh dự, cướp lại người vợ được Trời tác thành. Giết Mtao Mxây, chính nghĩa thuộc về Đăm Săn. Chiến thắng được tôn vinh cùng với việc Đăm Săn được sở hữu tất cả tài sản, dân làng, tôi tớ của hắn. Quyền sở hữu này là đặc trưng gắn với thời kì chuyển từ công xã thị tộc sang chiếm hữu nô lệ, làm nên vinh quang của người anh hùng. Bởi thế, hình ảnh trong sử thi được mô tả với quy mô hoành tráng : mọi người tình nguyện theo Đăm Săn đông như bầy hươu nai, lố nhố như đàn kiến cánh, như bầy kiến đen, như đàn mối trắng. Chàng thêm quyền uy, thêm nhiều chiêng núm, chiêng bằng – của cải trở thành biểu tượng sức mạnh tuyệt đối của người anh hùng. 
Chính vì thế, để xứng đáng với chiến công cũng phải có một lễ ăn mừng chiến thắng thật kì vĩ. Lời kêu gọi của Đăm Săn có sức mạnh hiệu triệu muôn người như một, bởi chàng đem lại niềm vinh quang chiến thắng, đem lại sự bình yên cho bến nước buôn làng. Lễ cúng mừng chiến thắng hào phóng cũng là để tôn vinh xứng đáng: “Hãy lấy bảy chum rượu, bảy con trâu đực, bảy con heo thiến để cúng cho Đăm Săn này đã chiến thắng Mtao Mxây, để ta được như cây cổ thụ cao vút”. Dấu ấn tâm linh sau chiến thắng cho thấy Trời đứng về phía Đăm Săn. Không khí hội còn náo nức tưng bừng với chiêng trống vang lừng khiến vỡ cả sàn nhà, làm bay mái tranh lợp nhà, con khỉ con vượn mải nghe mà quên đi hái trái cây, những con voi và con tê giác cũng phải lắng nghe mà quên cả cho con bú. Nổi bật giữa đám đông hoan hỉ ấy tất yếu phải là người anh hùng Đăm Săn – tù trưởng hùng mạnh ít ai sánh kịp. Ngay cả trong không khí yên bình của cộng đồng, vẻ đẹp ấy vẫn nổi bật từ ngoại hình đến hành động: mái tóc dài cuồn cuộn thả xuống một cái chiêng, uống rượu không bao giờ say, ăn uống không bao giờ thấy no. Hơn thế nữa, ngôn ngữ phóng đại của sử thi đã so sánh chàng ngang sức mạnh thần linh: “Oai linh vang đến tận thần núi phía Đông, đến tận thần núi phía Tây”. Hình ảnh Đam Săn sau chiến công này được mô tả phóng đại và như một điệp khúc vang vọng niềm tự hào về người anh hùng tiêu biểu của cộng đồng: “Và người ta bàn tán không cùng, rằng Đăm Săn quả thật là một tù trưởng dũng cảm, không bao giờ chịu lùi bước. Chàng ta mang chăn choàng trên vai, tay đeo vòng, cầm gươm chạm trổ sắc bén… Đăm Săn hùng cường ngay từ trong lòng mẹ”. Vẻ đẹp ấy chỉ có thể xuất hiện trong sử thi anh hùng, chỉ có ngôn ngữ sử thi mới đem lại những vẻ đẹp độc đáo đến thế !
               Đoạn trích đã đem lại cho ta những cách nhìn độc đáo về người anh hùng Đăm Săn trong chiến công bảo vệ buôn làng, đem lại bình yên cho bến nước. Lời kể chuyện hấp dẫn cùng ngôn ngữ miêu tả khoa trương tạo được dấu ấn đặc sắc, chứa đựng những giá trị nhân văn đặc trưng của sử thi. Sử thi anh hùng Đăm Săn quả thật đã hình thành ý thức và tình cảm cộng đồng vững bền của dân tộc Ê-Đê, thành di sản quý báu của Tây Nguyên và dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời đại sử thi rực rỡ với vẻ đẹp “một đi không trở lại”.

Đề 2.

Hãy tưởng tượng mình là Đăm Săn để kể lại trận đánh Mtao Mxây (trong sử thi Đăm Săn).

Dàn ý :

I. Mở bài.
 
Giới thiệu bản thân: một tù trưởng giàu có va uy danh lẫy lừng.
 
Giới thiệu nguyên nhân nảy sinh trận đánh: Mtao Mxây nhân lúc tôi và các nô lệ lên rẫy, ra sông lao động sản xuất đã kéo người đến cướp phá buôn làng và bắt mất nàng Hơ Nhị => buộc phải đánh nhau với Mtao Mxây để giành lại vợ, khẳng định uy danh.
 
II. Thân bài.
 
1. Khiêu chiến và đáp lời Mtao Mxây.
 
Thách Mtao Mxây đọ đao với tôi.
 
Trước những lời lẽ ngạo nghễ, mỉa mai của đối phương: giận dữ, buông lời hàm ý khinh miệt thách thức.
 
2. Những hiệp đấu đầu tiên
 
Đón tiếp với thái độ châm biếm khích tướng khi trông thấy bộ dạng hung ác nhưng bị động của đối phương: với hắn khiến tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu rồng, hắn dữ tợn như một vị thần nhưng buộc phải đi ra với dáng tần ngần do dự, mỗi bước mỗi đắn đo như gà làng mới mọc cựa, ... chưa ai giẫm phải mà đã gãy mất cánh.
 
Thách thức Mtao Mxây múa khiên với vẻ lỏng ngóng rất buồn cười của hắn: khiến hắn kêu lạch xạch nhu quả mướp khô, bước cao bước thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông, vùng đao chém phập, rứa trúng một cái chão cột trâu.
 
Đầy tự tin với khi thế mạnh mẽ, oai hùng hơn hẳn đối phương khi múa khiên: mỗi lần xốc tới là rượt một đồi tranh, rượt một đồi lồ ô, vun vút qua phía đông, phía tây.
 
Được tiếp thêm sức mạnh từ miếng trầu của Hơ Nhị, càng to ra mạnh mẽ hơn: khi múa trên cao, múa dưới thấp đều như gió bão, làm cây cối chết rụi, chòi đỏ lăn lóc, qua núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bột rễ bay tung nhưng vẫn không sao tiêu diệt được đối phương: cây giáo nhằm đùi Mtao Mxây phóng tới, trúng nhưng không thủng, đâm vào người hắn cũng không thủng.

3. Bước ngoặt của trận đấu. 
Thấm mệt, mơ gặp ông Trời va cầu cứu, được chỉ cách lấy một cái chày mòn ném vào vành tai hắn.
 
Bừng tỉnh, hành động như lời chỉ dạy của Trời. Kết quả là cái giáp của Mtao Mxây tức thì rơi loang xoảng, hắn tháo chạy nhưng cũng không tránh khói, cuối cùng bị đánh ngã lăn quay ra đất.
 
Không bị lung lạc bởi lời dụ dỗ của Mtao Mxây, tiêu diệt ngay hắn, cắt đầu... đem bêu ngoài đường.
 
4. Kết thúc huy hoàng.
Dân làng của Mtao Mxây đông như bầy cá tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến, như mối mang theo của cải về theo.
Bữa tiệc mừng công tưng bừng khí thế nơi ngôi nhà thân thuộc. Uống không biết say. ăn không biết no, chuyện trò không biết chán, hòa bình cùng niềm vui chung lan khắp buôn làng.
 
III. Kết bài. 
- Rất tự hào khi từ nay tôi trở thành một tù trưởng giàu có hơn, một dũng tướng tràn đầy sức trai danh lừng kháp núi, tiếng thơm mọi miền. 
- Khằng định nguồn động lực thôi thúc mình chiến đấu với kẻ thù và chiến thắng đó là những tình cảm cao cả nhất của người anh hùng: trọng danh dự, gắn bó với hạnh phúc gia đình, thiết tha với cuộc sống bình yên, phồn vinh của buôn làng.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Cảm nhận về nhân vật Đăm Săn trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.

4. Củng cố :

- Hình tượng nhân vật Đăm Săn trong trận chiến đấu với Mtao Mxây và trong cảnh ăn mừng chiến thắng.

- Đặc sắc nghệ thuật sử thi.

5. Dặn dò

- Đọc lại đoạn trích, học thuộc các dẫn chứng tiêu biểu.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 10/10/2017

TIẾT 31-32.

CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY

(Trích sử thi “Đăm Săn” – sử thi Tây Nguyên)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Đọc (kể) diễn cảm tác phẩm sử thi.

- Phân tích văn bản sử thi theo đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất :

- Bài học này giúp các em nhận thức được lẽ sống cao đẹp của mỗi cá nhân : phấn đấu hy sinh vì danh dự, hạnh phúc yên vui của cộng đồng. Đây là ý nghĩa mãi mãi của sử thi Đăm Săn nói riêng và sử thi anh hùng nói chung.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP

Gv kết hợp phương pháp thực hành, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, so sánh, tổng hợp.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Cảm nhận về nhân vật Đăm Săn trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.

Bài làm :

 Trong quá trình lao động sản xuất nhân dân ta đã sáng tác được ra những câu chuyện những tác phẩm tuyệt vời kể về cuộc đời , số phận chiến công của các tù trưởng anh hùng như Đam San , Đăm Di , Xinh Nhã , …được đánh giá cao và có tầm ảnh hưởng lớn đối với người đọc . Truyện Đăm Săn là một tác phẩm như thế và đây cũng là một trong những tác phẩm sử thi của dân tộc Ê đê Tây Nguyên và là một trong những tác phẩm hay nhất trong kho tàng dân tộc Việt Nam. Tác phẩm nói về người tù trưởng mang tên Đăm Săn cũng chính là câu chuyện về cộng đồng thị tộc Ê đê trong buổi đầu lịch sử. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng Đam San có vẻ đẹp toàn diện từ ngoại hình , lời nói , hành động đến nhân cách và lí tưởng sống .

 Sử thi là thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian , có quy mô lớn , ngôn ngữ có vần nhịp , hình tượng hào hùng hoành tráng , kể về những biến cố trọng đại của cộng đồng , lưu truyền bằng phương thức hát –kể khan . Sử thi có hai loại là sử thi thần thoại và sử thi anh hùng .  Sử thi Đam San là sử thi anh hùng tiêu biểu nhất của các dân tộc Tây Nguyên . Tác phẩm đã tái dựng lại đời sống đầy biến động của cộng đồng người Ê đê cổ đại qua hàng loạt những chiến công của người anh hùng Đam San : đánh thắng các tù trưởng Sắt , Kên Kên , mở mang buôn làng , chặt cây Sơmuk , bắt ông Trời phải làm theo mình , chinh phục nữ thần mặt trời , … Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây nằm ở giữa tác phẩm , kể về chiến công Đam San đánh thắng tù trưởng Sắt cứu vợ, bảo vệ thành công sự ấm no , hòa bình của buôn làng .  Trong Đoạn trích , Đam San đã tỏ rõ mình là người anh hùng qua việc khiêu chiến , giao chiến trong bốn hiệp , chiến thắng Mtao Mxây, thuyết phục tôi tớ Mtao Mxây theo mình và ăn mừng chiến thắng.

 Trước hết , Đam san là người có vẻ đẹp ngoại hình hoàn mĩ theo quan niệm của người Ê đê cổ đại . Vẻ đẹp của chàng được miêu tả bằng những mĩ từ trang trọng , giọng điệu sùng kính, thái dộ ngưỡng mộ , tự hào. Đam San có giọng nói hào sảng , vang dộng khi ra lệnh cho tôi tớ chuẩn bị lễ vật cúng thần , mời tất cả buôn làng , ra lệnh đánh chiêng trong khắp buôn . Chàng có hình dáng phi thường , vạm vỡ , khỏe đẹp , đậm chất tự nhiên Tây Nguyên . Tóc chàng dài thả xuống đầy cái nong hoa ; bắp chân to bằng cây xà ngang , bắp đùi to bằng ống bễ , sức ngang sức voi đực , hơi thở ầm ầm tựa sấm , mắt long lanh như chim ghếch ăn hoa tre . Trang phục của chàng oai nghiêm , thể hiện sức mạnh , uy quyền và sự giàu có : ngực quấn chéo một tấm mền chiến , khoác tấm áo chiến , có đủ gươm giáo .  Chàng nhiều của cải , sung túc , có chiêng đống , voi bầy , la nhiều , bạn bè như nêm như xếp , các tù trưởng khác khiêng lễ vật đến kết thân , cả thần linh cũng biết tiếng tăm của chàng. Chàng là niềm tự hào của cả bộ tộc . Vẻ đẹp của chàng hoang dã , gần tự nhiên . Sự giàu có , phồn vinh của chàng cũng là sự hùng mạnh của buôn làng.

Trong cuộc giao chiến, tài năng , phẩm chất anh hùng của Đam San thể hiện rõ nhất trong cuộc giao chiến với Mtao Mxây , trong tư thế đối lập hoàn toàn với kẻ thù. Đam San chiến dấu với Mtao M xây nhằm mục đích chính đáng là cứu vợ bảo vệ hạnh phúc gia đnh , bảo vệ danh dự cá nhân và cộng đồng , bảo vệ giữ gìn sự bình yên , phồn thịnh của buôn làng, đều là lẽ đúng, đứng ở bên chính nghĩa.

Khi giao chiến, Đam San được miêu tả trong thế so sánh với Mtao M xây . Tác giả dân gian thường miêu tả Mtao M xây trước để làm nền tôn vinh tài năng , sức mạnh của Đam San. Cuộc chiến diễn ra trong bốn hiệp . Hiệp 1 , Đam San Đam San nhường kể thù múa khiên trước ; hiệp 2 : cả hai cùng múa khiên , Mtao M xây chém trượt Đam San ; hiệp 3 Đam San đớp được miếng trầu của vợ , đam trúng Mtao M xây nhưng hắn không chết ; hiệp 4 : ông Trời mách nước Đam San giết được kẻ thù .Vẻ đẹp Đam Săn hiện rõ ngay từ khi chàng bước chân vào lãnh địa của mơ-tao Mơ-xây. Đam San chủ động tự tin khiêu chiến , đến tận chân cầu thang nhà Mtao M xây thách đấu mặc dù kẻ thù có lợi thế đất nhà , giàu có, được trang bị vũ khí tinh xảo, có bề ngoài uy nghi đáng sợ . Tù trưởng Sắt hung bạo dù kiêu căng ngạo mạn cũng luôn phải dè chừng sự hiện diện của chàng. Hình ảnh Đam Săn cùng những bạn bè đồng minh của chàng hiện lên dưới mắt kẻ thù thật dũng mãnh với khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp cùng khí thế hừng hực “Gươm sáng như mặt trời. Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi gấp ba mắt thường”. Hình ảnh so sánh thật đặc trưng đã làm đậm nét phi thường của người anh hùng. Tư thế ấy lại gắn liền hành động thách thức chặt ống tre thành ba khúc, xô đổ hàng rào hàm chứa sức mạnh tuyệt luân của chàng. Khi giáp chiến cùng Đam Săn, dù ngôn ngữ sử thi miêu tả mơ-tao Mơ-xây cũng rất đẹp, rất dũng mãnh nhưng vẫn lộ ra sự khiếp nhược trước Đam Săn. Lời nói củahắn với chàng lộ ra sự hèn nhát “đừng đâm ta lúc ta đang xuống nhé”. Đáp lại, Đam Săn đã bộc lộ sự khinh bỉ kẻ thù bằng tư thế đàng hoàng của mình: “Tao không thèm đâm mày trước lúc mày xuống! Ngay con heo nái nhà mày tao cũng có thèm chém đâu!”.

 Trong cuộc giao chiến , bất cứ lúc nào Đam San cũng tỏ ra chủ động , tự tin , bình tĩnh , dũng mãnh , chiến đấu kiên cường , hành động kiên quyết. Chàng múa khiên rất khỏe , đẹp , nhanh : một lần xốc tới vượt một đồi tranh , một lần xốc tới vượt một đồi lồ ô , vun vút qua phía đông , phía tây ; múa khiên như gió bão gió lốc , khiến chòi lẫm đổ lăn lóc , cây cối chết rụi , khiến ba lần quả núi rạn nứt , ba đồi tranh bật rễ bay tung. Nghệ thuật cường điệu đã cho thấy sức mạnh và tài năng phi thường của Đăm Săn.

Đam Săn không hề đơn độc trong cuộc chiến vì danh dự này. Chính nghĩa thuộc về chàng khi các tù trưởng bạn hùng mạnh giúp chàng giành lại người vợ yêu quí . Đồng thời, chàng còn được sự trợ giúp của ông Trời. Người anh hùng sử thi luôn có mối quan hệ với lực lượng siêu nhiên. Sang hiệp thứ hai hắn đã đuối sức và cầu cứa Hơ Nhị ném cho hắn một miếng trầu nhưng cô đã không ném cho hắn mà ngược lại là dành cho chồng. Nhận được miếng trầu từ tay vợ sức mạnh của Đăm Săn càng tăng lên gấp bội chàng múa khiên như gió bão như lốc “núi ba lần rạn nứt ba đồi tranh bật rễ” cây giáo thần của Đăm Săn nhằm vào đùi, vào người Mtao Mxây mà phóng tới, mà đâm vào nhưng không thủng. Trận chiến đã lên đến đỉnh điểm khiến Đăm Săn thấm mệt. Bước sang hiệp giao đấu thứ hai, Đăm Săn vừa chạy, vừa mộng thấy ông trời, rồi được ông trời chỉ dẫn. Sáng tạo nên chi tiết kì ảo thú vị này, tác giả dân gian đã huyền thoại hóa người anh hùng sử thi để ca ngợi của chàng. Việc Đăm Săn được ông trời giúp đỡ không hạ thấp tài năng của chàng mà trái lại càng tăng thêm thanh thế uy danh của Đăm Săn. Nó chứng tỏ cuộc chiến của chàng là cuộc chiến chính nghĩa nên được thần linh trợ giúp. Tuy nhiên, ông trời cũng chỉ là người mách nước còn quyết định vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào hành động trực tiếp của Đăm Săn. Bừng tỉnh sau lời “cố vấn” của ông trời, Đăm Săn càng nhanh nhẹn, quyết liệt và dứt khoát. Nhanh như chớp chàng “chộp ngay . . . kẻ địch” khiến cho “cái giáp của Mtao Mxây . . . loảng xoảng”. Hắn thảm bại, chạy trốn cầu xin Đăm Săn nhưng Đăm Săn không hề khoan nhượng. Chàng kể tội, kết án kẻ thù rồi “đâm phập . . . ngoài đường”. Hành động đó của chàng không hề thể hiện Đăm Săn là một kẻ dã man ,khát máu, nó là lối hành xử quen thuộc, thường thấy ở các thủ lĩnh anh hùng thời cổ đại khi kẻ thù xúc phạm tới danh dự, điều thiêng liêng, cao quý nhất của họ.

 Trái hẳn với Đam San , Mtao Mxây rất kém cói , hèn nhát . Lúc đầu hắn huyênh hoang tự nhận mình là học trò của thần Rồng ,là tướng quen đi xéo nát đất thiên hạ nhưng khi giao chiến thì hắn múa khiên lạch xạch như quả mướp khô , được nhường đánh trước thì đâm trượt Đam San , khi yếu thế thì chạy trốn quanh chuồng lợn , chuồng trâu , khi bị thua thì cầu xin giữ lại tính mạng .

Trong đoạn giao chiến , Đam San hiện lên là người anh hùng tài giỏi, quả cảm, giàu tinh thần thượng võ, Đam San chính là kết tinh sức mạnh ,vể đẹp, y chí, khát vọng của cả cộng đồng .Ngôn ngữ tả hành động chiến đấu của Đam San giàu nhịp điệu , hình ảnh , chất thơ , sử dụng nhiều phép so sánh cường điệu , liệt kê trùng điệp dày đặc .

Sau khi chiến thắng , Đam San không tiến hành giết chóc đẫm máu mà thuyết phục , kêu goi tôi tớ của Mtao m xây theo chàng . Thái độ kêu gọi của chàng rất nhiệt thành, tận tình, vồn vã, thuyết phục ba lần, chàng trực tiếp đến gõ cửa từng nhà để kêu gọi. Lời kêu gọi thể hiện l‎ tưởng anh hùng của Đam San : thống nhất các buôn làng , khát vọng hòa bình , phồn vinh , giàu mạnh , thống nhất lợi ích cá nhân chàng và lợi ích của cả buôn làng . Đáp lại lời kêu gọi của Đam San , tôi tớ của M-tao M-xây nô nức đem theo của cải về với chàng . Điều đó thể hiện uy tín của Đam San với cộng đồng , khát vọng hòa bình , giàu mạnh của chàng phù hợp với nguyện vọng chung của dân làng cũng như người Ê đê cổ đại.

Kết thúc trân đấu chàng về bản tổ chức ăn mừng. Lễ ăn mừng chiến thắng là một chuỗi những ngày hội dài “kéo dài hết mùa khô” và được tổ chức: linh đình và sang trọng; đông vui, nhộn nhịp; với đầy đủ phong tục tập quán của đồng bào Ê- đê Tây Nguyên.  Nổi bật giữa đám đông hoan hỉ ấy tất yếu phải là người anh hùng Đam Săn – tù trưởng hùng mạnh ít ai sánh kịp. Ngay cả trong không khí yên bình của cộng đồng, vẻ đẹp ấy vẫn nổi bật từ ngoại hình đến hành động: mái tóc dài cuồn cuộn thả xuống một cái chiêng, uống rượu không bao giờ say, ăn uống không bao giờ thấy no. Hơn thế nữa, ngôn ngữ phóng đại của sử thi đã so sánh chàng ngang sức mạnh thần linh: “Oai linh vang đến tận thần núi phía Đông, đến tận thần núi phía Tây”. Hình ảnh Đam Săn sau chiến công này được mô tả phóng đại và như một điệp khúc vang vọng niềm tự hào về người anh hùng tiêu biểu của cộng đồng: “Và người ta bàn tán không cùng, rằng Đam Săn quả thật là một tù trưởng dũng cảm, không bao giờ chịu lùi bước. Chàng ta mang chăn choàng trên vai, tay đeo vòng, cầm gươm chạm trổ sắc bén…Đam Săn hùng cường ngay từ trong lòng mẹ”. Vẻ đẹp ấy chỉ có thể xuất hiện trong sử thi anh hùng, chỉ có ngôn ngữ sử thi mới đem lại những vẻ đẹp độc đáo đến thế! Và lần ăn mừng bấy giờ cũng là khúc khải hoàn ca của bộ tộc Đăm Săn cho ta thấy sự phát triển, giàu có, hùng mạnh của bộ tộc Đăm Săn sau khi chàng giành chiến thắng. tô đậm và khắc sâu ý nghĩa thời đại của chiến tranh bộ tộc trong sự phát triển của cộng đồng.

 Với ngôn ngữ trang trọng giàu hình ảnh giàu nhạc điệu cùng phép so sánh và cường điệu độc đáo, ngôn ngữ trang trọng , giàu hình ảnh , chất thơ , nhạc điệu , lời kể hấp dẫn qua chiến công của Đăm Săn tác phẩm đề cao hình tượng oai phong dũng mãnh đề cao tài năng đề cao hạnh phúc gia đình tha thiết với cuộc sống phồn vinh bình yên của cộng đồng của người anh hùng Đam Săn qua đó làm nổi bật phẩm chất  khát vọng cao đẹp của người xưa.

 Đoạn trích đã đem lại cho ta những cách nhìn độc đáo về người anh hùng Đam Săn trong chiến công bảo vệ buôn làng, đem lại bình yên cho bến nước. Lời kể chuyện hấp dẫn cùng ngôn ngữ miêu tả khoa trương tạo được dấu ấn đặc sắc, chứa đựng những giá trị nhân văn đặc trưng của sử thi. Sử thi anh hùng Đam Săn quả thật đã hình thành ý thức và tình cảm cộng đồng vững bền của dân tộc Ê-Đê, thành di sản quí báu của Tây Nguyên và dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời đại sử thi rực rỡ với vẻ đẹp “một đi không trở lại”.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Có ý kiến cho rằng : Cuộc chiến của Đăm Săn với Mtao Mxây tuy có mục đích cụ thể là giành lại vợ nhưng vẫn có ý nghĩa và tầm quan trọng với lợi ích của toàn cộng đồng.

Qua đoạn trích “Chiến thắng Mtao M xây”, hãy chứng minh.

Bài làm
Trong kho tàng văn học dân gian vô cùng phong phú của dân tộc Việt Nam, sử thi Tây Nguyên chiếm vị trí đặc biệt cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong đó, nổi tiếng nhất là sử thi anh hùng Đăm Săn. Sử thi Đăm Săn viết về đề tài chiến tranh. Toàn bộ thiên sử thi tập trung ca ngợi tài năng, sức mạnh, vẻ đẹp phi thường của người anh hùng – tù trưởng Đăm Săn. Một trong những chiến công nổi bật của Đăm Săn là chiến thắng Mtao Mxây – tên tù trưởng thù địch, giành lại được vợ của mình. Có ý kiến cho rằng: “Cuộc chiến của Đăm Săn với Mtao Mxây tuy có mục đích cụ thể là giành lại vợ, nhưng vẫn có ý nghĩa và tầm quan trọng đối với lợi ích của toàn cộng đồng”. Ý kiến này đã khái quát nội dung ý nghĩa của đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.
Sau khi nghe Mtao Mxây cướp vợ của mình, Đăm Săn đã đến thẳng nhà Mtao Mxây để thách đấu. Mục đích của chàng là giết được kẻ thù, giành lại người vợ hiền yêu quý – Hơ Nhị – của mình. Với ý thức của một người đàn ông, Đăm Săn không thể chịu nổi nỗi nhục bị người khác cướp vợ của mình. Nhất là, chàng lại là một tù trưởng có bản tính “ngang tàng từ trong bụng
mẹ”. Chàng có thể chết dưới mũi giáo, đường gươm của kẻ thù chứ không thể chịu nổi nỗi nhục ấy. Nhất định chàng phải trả thù, chàng phải chiến đấu với Mtao Mxây để giành lại vợ của mình.
Và chàng đã chiến đấu bằng cả sức mạnh. Cuộc chiến diễn ra hết sức căng thẳng. Mtao Mxây do có chiếc áo giáp bảo vệ nên đã mấy lần mũi giáo thần của Đăm Săn đâm trúng nhưng hắn vẫn không chết. Không nản chí, Đăm Săn vẫn quyết tâm chiến đấu đến cùng. Khi đã thấm mệt, chàng “vừa chạy vừa ngủ” và mộng thấy ông Trời. Ông Trời đã chỉ “điểm yếu” nơi vành tai Mtao Mxây cho chàng. Chính sự mách bảo ấy đã giúp cho Đăm Săn chiến thắng kẻ thù. Khi bị Đăm Săn lấy chiếc chày mòn ném trúng vành tai, bộ áo giáp trên người không còn nữa, Mtao Mxây hoảng sợ bỏ chạy. Nhưng hắn chạy đến đâu cũng bị Đăm Săn rượt đuổi theo đến đó. “Hắn tránh quanh chuồng lợn, Đăm Săn phá tan chuồng lợn, hắn tránh quanh chuồng trâu, Đăm Săn phá tan chuồng trâu”. Và đến khi “hắn ngã lăn ra đất”, nằm dưới ngọn giáo của Đăm Săn, hắn vội cầu xin Đăm Săn tha mạng: “Ơ diêng, ơ diêng, để ta làm lễ cầu phúc cho diêng một trâu! Ta cho thêm diêng một voi”. Nhưng cái giá phải trả của một kẻ đã cướp vợ người không thể khác được. Câu trả lời của Đăm Săn đã như một bản kết án tử hình: “Sao ngươi còn cúng trâu cầu phúc cho ta? Chẳng phải vợ ta ngươi đã cướp, đùi ta ngươi đã đâm rồi sao?”. Chàng đã giết chết Mtao Mxây, rửa được nỗi nhục cho bản thân và giành lại vợ của mình.
Cuộc chiến đấu của Đăm Săn với Mtao Mxây tuy có mục đích riêng là giành lại vợ, nhưng vẫn có ý nghĩa và tầm quan trọng đối với lợi ích của toàn cộng đồng.
Trong lịch sử hình thành các dân tộc, các bộ tộc, bộ lạc, đứng đầu là các tù trưởng như Đăm Săn đã mở rộng đất đai, tích lũy của cải bằng những cuộc chinh phạt, mà nguyên nhân trực tiếp bao giờ cũng do sự tranh chấp tài sản, đất đai hay nô lệ, trong đó thường có sự tranh giành phụ nữ. Cho nên, cuộc chiến giành lại Hơ Nhị cũng chỉ là cái nguyên cớ trực tiếp. Ý nghĩa gián tiếp, khách quan, và cũng là ý nghĩa lịch sử của những cuộc chiến này là sự mở rộng lãnh thổ, phát triển buôn làng. Điều đó không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân Đăm Săn hay Hơ Nhị, mà còn có ý nghĩa đối với cả dân tộc Ê-đê. Nó phản ánh một dấu mốc lớn trong lịch sử hình thành dân tộc Ê-đê. Chính vì lẽ đó, chiến thắng của Đăm Săn mới được miêu tả như một kì tích, có cả Ông Trời giúp đỡ, và trở thành niềm vui, niềm tự hào của cả buôn làng.
Tất cả tôi tớ trong nhà, dân trong làng đều vui sướng, nhộn nhịp trong buổi tiệc mừng chiến thắng của tù trưởng. “Các chàng trai đi lại ngực đụng ngực, các cô gái đi lại vú đụng vú. Cảnh làng một tù trưởng nhà giàu trông sao mà vui thế”. và họ tự hào rằng họ đã có được một tù trưởng, đầu đội
khăn nhiễu, vai mang nải hoa, đánh đập đập tan đó, vây đâu phá nát đó như chàng”.
Chiến công của Đăm Săn còn đem đến niềm vui, niềm tự hào cho nhiều buôn làng khác. “Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến”. Họ đến là để chia vui, mừng cho chiến thắng của Đăm Săn. Sau chiến thắng ấy, danh tiếng của Đăm Săn vang lừng khắp nơi “danh vang đến các thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe thấy danh tiếng”. Uy tín, sức mạnh của chàng tăng lên gấp bội. Người ta tự hào “ca ngợi Đăm Săn là một dũng tướng chắc chết mười mươi cũng không lùi bước”. “Đăm Săn hiện ra là một tù trưởng mới giàu lên, đang tràn đầy sức trai, tiếng tăm lừng lẫy”.
Như vậy, cuộc chiến của Đăm Săn với Mtao Mxây có mục đích riêng là để giành lại người vợ nhưng lại có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cả cộng đồng. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” là một trong những bản hùng ca ca ngợi tài năng và sức mạnh của người anh hùng Đăm Săn, ghi lại dấu mốc của một thời kì lịch sử của dân tộc Ê-đê.

4. Củng cố :

- Hình tượng nhân vật Đăm Săn trong trận chiến đấu với Mtao Mxây và trong cảnh ăn mừng chiến thắng.

- Đặc sắc nghệ thuật sử thi.

5. Dặn dò

- Đọc lại đoạn trích, học thuộc các dẫn chứng tiêu biểu.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 11/10/2017

TIẾT 33-34.

CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY

(Trích sử thi “Đăm Săn” – sử thi Tây Nguyên)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Đọc (kể) diễn cảm tác phẩm sử thi.

- Phân tích văn bản sử thi theo đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất :

- Bài học này giúp các em nhận thức được lẽ sống cao đẹp của mỗi cá nhân : phấn đấu hy sinh vì danh dự, hạnh phúc yên vui của cộng đồng. Đây là ý nghĩa mãi mãi của sử thi Đăm Săn nói riêng và sử thi anh hùng nói chung.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP

Gv kết hợp phương pháp thực hành, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, so sánh, tổng hợp.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Hãy viết bài văn tả quang cảnh nhà tù trưởng Đăm Săn sau khi chiến thắng Mtao Mxây.

I. DÀN Ý

* Mở bài:

-   Sau khi Đăm Săn chiến thẳng Mtao Mxây, hàng ngàn tôi tớ của hắn đã đi theo Đăm Săn.

-  Đăm Săn mở tiệc ăn mừng kéo dài trong nhiều ngày.

* Thân bàl:

Quang cảnh nhà tù trưởng Đăm Săn:

-   Đăm Săn ra lệnh cho tôi tớ chuẩn bị thật nhiều rượu và trâu để cúng thần linh, tổ tiên, cầu sức khoẻ cho mình.

-  Mời tất cả họ hàng, bà con dân làng đến dự tiệc.

-   Nhà Đăm Săn đông nghịt khách khứa, các tù trưởng ở phương xa cũng đến chúc mừng.

-   Đăm Săn mở tiệc linh đinh, mổ nhiều trâu, bò, lợn, dê. Rượu tuôn như suối. Dây cồng chiêng giăng giăng như mạng nhện. Tiếng chiêng cồng vang khắp núi non. 

-  Đăm Săn trong trang phục đẹp đẽ, uy nghi như một dũng tướng, niềm nở đón tiếp mọi người. Xung quanh chàng, giáo gươm sáng quắc.

* Kết bài:

• Kính phục chàng, nhiều khách từ phương xa cũng nườm nượp kéo đến chia vui.

- Tên tuổi Đăm Săn lừng lẫy, thần linh cũng biết đến chàng.

II. BÀI LÀM

Sau khi chiến thắng Mtao Mxây, kẻ đã cướp vợ mình, Đăm Săn trở về nhà. Hàng ngàn tôi tớ và dân làng của Mtao Mxây đi theo chàng. Họ mang theo của cải nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước.

Đăm Săn hào hứng hô to: “ơ các con, hãy đi lấy rượu, bắt trâu! Rượu năm ché, trâu dâng một con để cúng thần linh, cáo tồ tiên, cầu sức khoẻ cho ta mới đi đánh kẻ thù, bắt tù binh, xéo nát đất đai một tù trưởng nhà giàu về. Rượu bảy ché, trâu bảy con, lợn thiến bảy con để dâng thần, cầu cho ta binh yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không ai bì kịp! Hỡi anh em trong nhà, bà con trong làng, xin mời tất cả đến với ta ! Chúng ta sẽ mở tiệc ăn mừng năm mới, chúng ta sẽ ăn lợn ăn trâu, đánh lên các chiêng trống to, đánh lên cảc cồng hlong hoà nhịp cùng chũm chọe xoa sao cho kêu lên rộn rã, để voi đực voi cái ra vào sàn hiên không ngớt, dây cồng dây chiêng không lúc nào vắng bớt trên giá treo chiêng, các chuỗi thịt trâu thịt bò treo đen nhà, chậu thau, âu đồng nhiều không còn chỗ để".

Đám tôi tớ kính cẩn hỏi chàng nên đánh chiêng nào, Đăm Săn bảo hãy đánh các chiêng có tiếng âm vang, những chiêng có tiếng đồng, tiếng bạc. Ba con kéo đến xem, nhà Đam Săn đông nghịt khách khứa. Các tù trưởng ở phương xa cũng kéo đến chúc mừng.

Đăm Săn nằm trên võng, tóc thả xuống sàn, hứng tóc chàng là một cái nong hoa. Chàng mở tiệc linh đình, thịt lợn, thịt trâu, thịt dê nhiều không kể xiết. Máu bò máu trâu đọng đen khắp sàn hiên. Dây cồng dây chiêng giăng giăng như mạng nhện. Chỉ vàng, chỉ đỏ như hoa dam piết nở rộ ngoài rừng. Trai gái đi đi lại lại rộn ràng tấp nập

Cảnh nhả của tù trưởng Đăm Săn giàu có và hùng mạnh thật là vui vẻ. tưng bừng. Rõ ràng, tù trưởng Đăm Săn đang giàu lên, chiêng lắm, voi nhiểu, bạn bè đông khống kể xiết. Dũng tướng Đăm Săn ngực quấn chéo một tấm mền chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ thứ giáo gươm, đôi mắt sáng long lanh như mắt chim ghếch, thân thể tràn đầy sức trai. Bắp chân chàng to như cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức khoẻ chàng ngang sức voi đực, hơi thở của chàng ầm ầm như sấm dậy.

Yêu mến và kính phục Đăm Săn, người từ muôn nơi nườm nượp khiêng rượu, khiêng lợn đến nhà chàng. Đăm Săn trở thành vị tù trưởng nổi tiếng đến mức thần linh cũng biết tới chàng.


Đề 2.

So sánh lời nói, cử chỉ, hành động của hai nhân vật Đăm Săn và Mtao Mxây.

Gợi ý :
Đam Săn là bộ sử thi nổi tiếng, là niềm tự hào của nhân dân Tây Nguyên. Đam Săn là nhân vật chính là đại diện, biểu trưng cho sức mạnh của các cộng đồng người Tây Nguyên trong buổi đầu xây dựng và bảo vệ buôn làng. Vì thế, người Tây Nguyên dùng những ngôn từ, hình ảnh đẹp nhất để ca ngợi sự dũng mãnh của chàng.

Trong đoạn trích này, hai nhân vật Mtao Mxây và Đam săn đều được tả bằng ngôn ngữ hào sảng của sử thi song lại được miêu tả với hai cảm hứng khác nhau. Với Đam Săn, đó là cảm hứng ngợi ca. Với Mtao Mxây là cảm hứng phê phán. Hai người đều tài giỏi nhưng hành động và ngôn ngữ của họ lại khác nhau.
Ngôn ngữ của Đam Săn là ngôn ngữ của người anh hùng đại diện cho chính nghĩa. Mtao Mxây cướp vợ của Đam Săn. Vì danh dự của mình, Đam Săn đi đòi vợ. Chàng đến khiêu chiến với Mtao Mxây bằng tinh thần thượng võ của người anh hùng. Nhưng Mtao Mxây lại là kẻ xấu, hắn buông lời chọc tức chàng “Ta không xuống đâu… Tay ta còn đang bận ôm vợ hai chúng ta ở trên này cơ mà”. Hắn cũng sợ Đam Săn có hành động đâm lén. Nhưng Đam Săn không phải là người như vậy. Chàng coi thường Mtao Mxây và đó cũng là thái độ của người Ê đê đối với Mtao Mxây. Đam Săn coi hắn không bằng con lợn nái, con trâu, “như con gà làng mới mọc cựa… chưa ai giấm phải mà đã gãy mất cánh. Đều nhằm mục đích trêu tức đối phương những hai nhân vật này có hai cách nói khác nhau thể hiện một nét bản chất quan trọng ở họ. Một người đầy tinh thần thượng võ, một người ti tiện.
Hình dáng, vũ khí chiến đấu của hai người được miêu tả không giống nhau. Với Mtao Mxây ” khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng… dáng tần ngần do dự, mỗi bước mỗi đắn đo, giữa một đám đông mịt mù như trong sương sớm”. Hắn có vẻ thiếu tự tin và lo sợ trước Đam Săn. Tác giả còn ví “khiên hắn lạch xạch như quả mướp khô”. Thế nhưng lời lẽ của hắn lại rất huyên hoang “Có cậu, ta học cậu…có thần Rồng ta học rthần Rồng”. Tự hắn cũng nhận hắn là kẻ chuyên đi xâm lược “là một tướng chuyên đi đánh thiên hạ, bắt tù binh…”. Thế rồi, Mtao Mxây đã thất bại thảm hại trước Đam Săn, ” Mtao Mxây tháo chạy…”. Cuối cùng hắn đã phải hèn nhát van xin dưới tay Đam Săn. Đam Săn đã chiến thắng thật vẻ vang.
Ngược lại với Mtao Mxây, Đam Săn lại được miêu tả với những ngôn ngữ khác. Cử chỉ, hành động và ngôn ngữ của chàng đều rất oai phong. Chàng hiên ngang thách đấu với Mtao Mxây bằng một tinh thần thượng võ. Chàng cho kẻ thù múa khiên trước. Vẻ đẹp của chàng trong chiến đấu được miêu tả “Mỗi lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh… vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”.
Tác giả dân gian đã miêu tả hành động của Đam Săn rất tỉ mỉ. Chàng hiện lên như một đấng thần linh, đối lập hoàn toàn với hình ảnh Mtao Mxây trong đoạn trích. Khiên của Mtao Mxây “kêu lạch xạch như quả mướp khô” thì khi Đam Săn múa “Chàng múa trên cao, gió như bão…”
Bằng ngôn ngữ kể chuyện rất hồn nhiên và ngây thơ, tác giả dân gian đã tạo dựng hai nhân vật anh hùng ở hai tuyến khác nhau, qua đó khẳng định sức mạnh cộng đồng.

Đề 3.

Bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua sử thi “Đăm Săn”

Gợi ý :

Với khối lượng đồ sộ lên đến hàng trăm, sử thi Tây Nguyên là “bộ bách khoa thư” khổng lồ hiếm có về thời cổ của các dân tộc Tây Nguyên nước ta. Người Ấn Độ nói: “Cái gì không có trong hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana thì không thể tìm thấy bất kì ở đâu trên đất nước Ấn Độ”, còn chúng ta cũng có thể tự hào mà nói: “Cái gì không có trong sử thi Tây Nguyên thì không thể tìm thấy trên đất Tây Nguyên”. Nếu như Iliat, Odixe- những tác phẩm anh hùng ca vĩ đại của Hi Lạp ca ngợi lí tưởng vinh quang và chiến trận thì những anh hùng ca Tây Nguyên lại hướng về lí tưởng đấu tranh chống lại những tập tục cũ, lạc hậu, chống lại thần quyền và các thế lực áp bức bóc lột vừa nảy nở trong cuộc sống của bộ tộc. Nhưng trên hết, ở tác phẩm sử thi vẫn là sự hiện diện của những con người, những nhân vật cá tính và bản lĩnh sống trong mỗi trang giấy, qua hơi thở cuộc sống, qua lời kể và tiếng cồng chiêng dậy núi đồi…Nói cách khác, qua sử thi, người đọc hiện đại có thể tìm thấy bản sắc văn hóa của các tộc người Tây Nguyên. Để có thể hiểu hết những giá trị của tác phẩm, nhất định phải nắm được những đặc trưng văn hóa ở nơi đây. Tìm kiếm trong các sử thi, anh hùng ca có thể nhận biết được một số tập tục, lễ nghi, văn hóa ứng xử, sinh hoạt…

Tục nối dây – chuê nuê của người Tây Nguyên

Đây là một tập tục đã tồn tại từ lâu đời của người Tây Nguyên. Khi người vợ hoặc chồng chết đi thì người còn lại phải lấy người trong dòng họ để tiếp tục cuộc sống vợ chồng, với quan niệm cho rằng có thực hiện đúng “chuê nuê” mới giữ trọn dòng giống của gia đình, của dân tộc, con người mới không bị lẻ đôi. Chẳng hạn như trong khan Đam San của người Êđê, tục lệ này thể hiện rất rõ. Khi bà của H’Nhí chết thì H’Nhí phải là người “nối dây” lấy ông của mình làm chồng, hoặc khi Đam San chết và đầu thai vào người chị H’Âng sinh ra Đam San cháu thì H’Nhí và H’Bhí phải tiếp tục nối dây với Đam San cháu.

Tục cột rượu treo chiêng

Phong tục này thể hiện tính hiếu khách của người Tây Nguyên và cũng là lễ chào đón một sự kiện trọng đại nào đó. Trong khan Đam San, tục cột rượu được thể hiện ở việc gia đình H’Nhí chuẩn bị cưới chồng cho chị em nhà H’Nhí và H’Bhí.

Cột rượu còn là một tục lệ mà người Tây Nguyên dùng để cầu may cho khách, hoặc người thân trong gia đình. Đây là một hình thức sinh hoạt không thể thiếu trong nếp sống văn hóa hàng ngày.

Chiêng là một loại nhạc cụ quí giá có ý nghĩa trong đời sống tinh thần. Nó chứng minh sự giàu có của một gia đình. Nhà nào có nhiều chiêng, nhiều ché tức, ché tang thì được coi là giàu mạnh. Ngoài Đam San, trong các sử thi khác như Xing Nhã, Đăm Yông, hay Y Ban…hình ảnh của ché rượu và tiếng chiêng dường như tôn thêm vẻ đẹp văn hóa, cho cái riêng của con người Tây Nguyên.

Tiếng chiêng được diễn tấu bằng cách gõ chiếc dùi bọc bằng cao su, hoặc dùi gỗ mềm không bọc để tạo ra tiếng chiêng khác nhau. Trong khan Đam San có diễn tả âm thanh này một cách sống động, tựa hồ như đưa người ta quay về với một thời cổ đại oai hùng mang sắc màu thần thoại: “tiếng chiêng lan ra khắp xứ ,… tiếng chiêng luồn qua sàn nhà, lan xuống dưới đất !…” và: “tiếng chiêng vượt qua mái nhà vọng lên trời…”. Phải chăng, chính những tục lệ văn hóa độc đáo này mà sử thi Tây Nguyên trở nên có ý nghĩa về cả lịch sử lẫn một nền văn học nghệ thuật còn nhiều bí ẩn cần khám phá? Và phải chăng, chàng trai Đam San bỗng trở thành một người anh hùng đầy bản lĩnh bởi tiếng chiêng vang dậy núi rừng…

Tục lệ cưới hỏi và văn hóa ứng xử

Theo tập tục này thì đối với họ người con gái là quý nhất, là người nắm giữ vai trò chủ chốt trong gia đình. Người M Nông có câu hát: “Người vợ giữ nhà, thực hiện những việc lớn lao nguy hiểm…của cải trong nhà do người phụ nữ trông coi. Người không có vợ như nhà không có nóc, như gà không có chuồng. Vậy con gái là quý nhất”…Có lẽ vì vậy mà trong hôn nhân người con gái sẽ làm chủ đối với việc cưới hỏi (hoặc nói theo cách của người đồng bào là bắt rể), khác hoàn toàn phong tục của người Kinh.

Dưới góc nhìn văn hóa, chúng ta có thể tiếp cận gần hơn tới giá trị đích thực của tác phẩm văn học. Chính sự kết tinh của một nền văn hóa, của những giá trị văn hóa đã tạo nên phong cách riêng độc đáo, đậm đà cho người Tây Nguyên. Hay nói cách khác “truyền thống văn hóa” Tây Nguyên là sự kết tinh của phong tục tập quán, lối sống – sinh hoạt, và cũng là cái nôi của sự hình thành, phát triển chất trí tuệ của người Tây Nguyên trong cộng đồng người Việt nói chung.

Bàn về đời sống văn hóa quả không đơn giản, vì vốn dĩ, bản sắc văn hóa rất phong phú, đa dạng, mang nhiều giá trị về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Với người Tây Nguyên, như từng có đề xuất phương án lí giải, phải chăng, đó là một nền “văn hóa rừng” theo nghĩa: “rừng không chỉ là tài nguyên, mà rừng là tất cả, là toàn bộ cuộc sống của họ, là chính bản thân họ”… Rừng là không gian sinh tồn và còn là thời gian sinh tồn của người Tây Nguyên. Chính điều này đã tạo nên những trang sử thi của một thời cổ đại oai hùng với lí tưởng thần thánh. Đam San là vẻ đẹp, là niềm tự hào của người Êđê nói riêng và các tộc người trên dãy núi Trường Sơn nói chung.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Đọc hai đoạn miêu tả cảnh Đăm Săn múa khiên và đoạn cuối là hình ảnh và sức khỏe của chàng trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”. Từ ba đoạn văn đó hãy cho biết:

  • Những nét nổi bật trong nghệ thuật miêu tả nhân vật anh hùng của sử thi là gì?
  • Nhờ những thủ pháp đặc trưng đó, vẻ đẹp của người anh hùng sử thi đã được lí tưởng hóa như thế nào?

Gợi ý :

  • 3 đoạn văn đó là:
    • Đoạn 1: “Đăm Săn rung khiên múa… trúng một cái chão cột trâu”.
    • Đoạn 2: “Thế là Đăm Săn lại múa…. Cũng không thủng”.
    •  Đoạn 3: “Vì vậy, danh vang đến thần… từ trong bụng mẹ”.
  • Nét nổi bật trong nghệ thuật miêu tả nhân vật anh hùng sử thi: đó là các thủ pháp so sánh, phóng đại, trùng điệp được dùng nhiều và rất sáng tạo với trí tưởng tượng hết sức phong phú của tác giả dân gian.
    • Thủ pháp so sánh: Với những câu văn như "chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc", "Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực..." nhằm làm nổi bật sức mạnh của Đăm Săn.
    • Thủ pháp phóng đại: "Một lần xốc tới, chàng vợt một đồi tranh", "khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung"...
    • Thủ pháp trùng điệp: Các hành động, cũng như đặc điểm của Đam Săn đều được luyến láy nhiều lần: "Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây", "Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang... Đam Săn vốn ngang tàng từ trong bụng mẹ",... Qua đó, nhằm tô đậm hình ảnh của chàng Đăm Săn với sức mạnh, sự kì vĩ, lớn lao.
    • Hiệu quả nghệ thuật: các biện pháp nghệ thuật này nhằm tôn cao vẻ đẹp của người anh hùng sử thi, một vẻ đẹp kì vĩ trong một khung cảnh hoành tráng.

Đoạn trích thể hiện khá rỡ nét những đặc sắc của nghệ thuật sử thi. Trước hết, đó là nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ : Ngôn ngữ người kể chuyện biến hoá linh hoạt khi chậm rãi khoan thai, khi ào ạt mạnh mẽ,… trong các đoạn miêu tả nhà Mtao Mxây, tả chân dung Mtao Mxây, tả cuộc giao tranh giữa Đăm Săn và Mtao Mxây nhất là những đoạn miêu tả cảnh ăn mừng sau chiến thắng của Đăm Săn. Ngôn ngữ đối thoại trong đoạn trích được khai thác triệt để từ nhiều góc độ, đã góp phần khắc hoạ rõ nét hình tượng nhân vật (trong các lời đối thoại giữa Đăm Săn với Mtao Mxây, lời của Đăm Săn nói với tôi tớ và dân làng của Mtao Mxây, đối thoại giữa Đăm Săn với dân làng của mình sau chiến thắng). Đặc biệt, trong ngôn ngữ của nhân vật có nhiều chỗ sử dụng các câu mệnh lệnh mang âm hưởng hiệu triệu, vang vọng (ơ các con, ơ các con, hãy đi lấy rượu bắt trâu ! ; Hãy đánh lên các tiếng chiêng… ; Hãy đánh lên tất cả…) thấm đẫm chất sử thi anh hùng. Mặt khác, trong ngôn ngữ của người kể chuyện, tác giả thường xen lẫn những lời trực tiếp hướng đến người nghe (Bà con xem… ; Thế là, bà con xem…). Dạng lời này có tác dụng lôi cuốn người nghe nhập cuộc đồng thời góp phần bộc lộ trực tiếp thái độ, sự phấn khích mang sắc thái diễn xướng của sử thi anh hùng, nó tạo ra sự giao tiếp sử thi, khơi gợi mối đồng cảm cộng đồng, giao hoà sử thi.

Việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh và phóng đại đã tạo cho đoạn trích những hiệu quả diễn đạt ấn tượng. Chẳng hạn, miêu tả Mtao Mxây : “khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một vị thần… giữa một đám đông mịt mù như trong sương sớm” ; “Khiên hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô”. Hoặc miêu tả Đăm Săn : “Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây” ; “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc” ; “Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung” ; “đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre” ; “Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc”… Bên cạnh đó, các phép so sánh, phóng đại trong ngôn ngữ nhân vật cũng được huy động tối đa : với Mtao Mxây “Ta như gà làng mới mọc cựa kliê, như gà rừng mới mọc cựa êchăm”,… với Đăm Săn : “Cầu cho ta được bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không còn ai bì kịp ; Hãy đánh lên tất cả cho ở dưới vỡ toác các cây đòn ngạch… để nghe tiếng chiêng ăn đông uống vui như mừng mùa khô năm mới của ta vậy”…

Biện pháp so sánh, phóng đại tạo ra sức hấp dẫn cho sử thi, đó là cách diễn đạt, mô tả bằng hình ảnh sinh động, tạo ấn tượng về sức mạnh, vẻ đẹp thần thánh, siêu phàm đúng với tính chất hùng tráng, mang tầm vũ trụ của nhân vật và hành động của sử thi anh hùng.

4. Củng cố :

- Hình tượng nhân vật Đăm Săn trong trận chiến đấu với Mtao Mxây và trong cảnh ăn mừng chiến thắng.

- Đặc sắc nghệ thuật sử thi.

5. Dặn dò

- Đọc lại đoạn trích, học thuộc các dẫn chứng tiêu biểu.

- Chuẩn bị bài : “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

Ngày soạn : 12/10/2017

Tiết 35-36.

TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU - TRỌNG THUỶ

( Truyền thuyết)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Đọc (kể) diễn cảm truyền thuyết dân gian.

- Phân tích văn bản truyền thuyết theo đặc trưng thể loại để có thể hiểu đúng những ý nghĩa của những hư cấu nghệ thuật trong truyền thuyết : kĩ năng tóm tắt truyện, phân tích nhân vật truyền thuyết.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Giáo dục lòng yêu nước, ý thức đề cao cảnh giác trước kẻ thù, biết xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung, cá nhân với cộng đồng.

- Yêu gia đình, quê hương đất nước; Nhân ái khoan dung; Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại; Nghĩa vụ công dân.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp với lịch sử (cụm di tích Cổ Loa) và Làm văn ở bài “Tóm tắt văn bản tự sự”.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

- Phân tích vẻ đẹp hình tượng Đăm Săn trong tiệc mừng chiến thắng.

- Trình bày nội dung và nghệ thuật của đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.

3. Bài mới

I. ÔN TẬP LÍ THUYẾT

1. Khái niệm truyền thuyết

Truyền thuyết là tên gọi dùng để chỉ một nhóm những sáng tác dân gian mà đặc điểm chung của chúng thể hiện các yếu tố kỳ diệu, huyễn tưởng, nhưng lại được cảm nhận là xác thực, diễn ra ở ranh giới giữa thời gian lịch sử và thời gian thần thoại, hoặc diễn ra ở thời gian lịch sử.

2. Đặc điểm, phân loại

a. Họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang: mang tính chất sử thi, phản ánh không khí anh hùng ca thời Hùng Vương dựng nước và trình độ khá văn minh của người Văn Lang. Các truyền thuyết tiêu biểu của thời kỳ này là Lạc Long Quân-Âu CơSơn Tinh-Thủy TinhThánh Gióng, Thánh Hùng Linh CôngHùng Vương thứ sáuHùng Vương thứ mười tám...

b. Thời kỳ Âu Lạc và Bắc thuộc: Nước Âu Lạc của An Dương Vương tồn tại khoảng 50 năm (257 TCN-208 TCN). Thời kỳ Bắc thuộc hơn 10 thế kỷ (207 TCN-938) là thời kỳ bị xâm lược và chiến đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Truyền thuyết tiêu biểu của thời Âu Lạc là truyện An Dương Vương, kết cấu gồm hai phần: phần đầu là lịch sử chiến thắng, phần sau là lịch sử chiến bại. Các truyền thuyết phản ánh các cuộc vũ trang khởi nghĩa chống xâm lược thời kỳ Bắc thuộc là Hai Bà TrưngBà TriệuLý Bí...

c. Thời kỳ phong kiến tự chủ: Từ thế kỉ 10 đến thế kỉ 15, giai cấp phong kiến Việt Nam xây dựng một quốc gia thống nhất, củng cố nền độc lập dân tộc. Từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 19 là sự suy sụp của các triều đại phong kiến. Các truyền thuyết của thời kỳ nầy gồm các nhóm sau đây:

3. Phân biệt truyền thuyết với các thể loại khác

3.1. Truyền thuyết và thần thoại :

                 Tiêu chí nhân vật chính:

Nhân vật chính trong thần thoại là thần hoặc bán thần. Nhân vật chính trong truyền thuyết giàu nhân tính hơn.

                 Tiêu chí nội dung:

Thần thoại nêu lên khát vọng hiểu biết, khám phá những hiện tượng của vũ thụ, loài người mang tính suy nguyên. Truyền thuyết thuyết tập trung vào những vấn đề xã hội.

               Thời kỳ ra đời:

Thần thoại ra đời từ thời nguyên thủy. Truyền thuyết ra đời ở xã hội giai đọan sau.

3.2.Truyền thuyết và cổ tích

              Về cốt truyện và nhân vật:

      Ðặc điểm nổi bật của cốt truyện và nhân vật cổ tích là tính hư cấu, tưởng tượng. Cốt truyện và nhân vật truyền thuyết có xu hướng bám sát lịch sử.

        Về nội dung:

       Truyện cổ tích phản ánh những xung đột trong gia đình và xã hội, đặc biệt là trong gia đình phụ quyền và xã hội phong kiến. Truyền thuyết hướng về đề tài lịch sử, nhân vật lịch sử.

        Về kết thúc truyện:

       Truyện cổ tích kết thúc có hậu hoặc không có hậu , nhân vật chính mãi mãi hạnh phúc hoặc trở thành biểu tượng của nhân phẩm. Truyền thuyết thường kết thúc mở, nhân vật vẫn tồn tại và sẽ tham gia vào những sự kiện mới của lịch sử

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Câu 1: Hãy cho biết vai trò của An Dương Vương trong sự nghiệp giữ nước ?

Gợi ý :

 - An Dương Vương vừa là một vị vua có thực trong cổ sử Việt Nam, vừa là nhân vật gắn với nhiều hư cấu li kì trong truyền thuyết. Truyền thuyết kể lại rằng, Hùng Vương thứ 18 thấy Thục Phán là người có tài, nghĩ mình không có con trai, nên theo lời khuyên của Sơn Tinh đã truyền lại ngôi báu cho Thục Phán. Cũng theo truyền thuyết, sau khi được truyền ngôi báu, An Dương Vương đã dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh về vùng đồng bằng Cổ Loa

- Việc dời đô từ núi Nghĩa Lĩnh về Cổ Loa đã chứng tỏ quyết sách sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của ADV.

- ADV cho xây thành, đắp lũy, đào hào, chế tạo vũ khí tốt để chuẩn bị chống giặc thể hiện tinh thần cảnh giác.  Dời đô là quốc sách, nhưng cũng có nghĩa là phơi lưng ra giữa đồng bằng, thách thức đối phương. An Dương Vương thấy trước mối đe doạ đó, nên ngay sau khi quyết định dời đô về giữa Cổ Loa trống trải, người đã cho xây thành đắp lũy, sẵn sằng phòng thủ giặc ngoại xâm.

- Việc nhà vua đón mời cụ già bí ẩn vào hỏi kế xây thành, ra cửa Đông đón xứ Thanh Giang, nghe rùa Vàng diệt trừ yêu quái thể hiện thái độ trọng hiền tài.

- Nhiều lần chiến thắng quân Triệu Đà, khiến Đà phải xin cầu hòa thể hiện tài quân sự của ADV.

- Phản ánh các sự kiện lịch sử có liên quan tới An Dương Vương trong truyền thuyết, nhân dân ta đã phần nào kì ảo hoá các yếu tố lịch sử khách quan. Và chính việc sáng tạo nên những yếu tố kì ảo đan xen với các yếu tố lịch sử đã khiến cho câu chuyện thêm lung linh, kì ảo, tăng tính khái quát , ý nghĩa biểu trưng của các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Chi tiết nhà vua xây thành được rùa vàng giúp đỡ, chi tiết rùa vàng cho vuốt để An Dương Vương chế tạo nỏ thần đã khẳng định việc làm của An Dương Vương được làng dân, hợp lòng trời nên được cả thần và người cùng giúp đỡ. Đó là một cách để nhân dân ta ngợi ca công đức của nhà vua, tự hào về những chiến công và thành tựu của nhân dân thời Âu Lạc.
=> Như vậy ở phần đầu của tác phẩm, với vị trí là vua nước Âu Lạc, là người lãnh đạo cao nhất của một quốc gia, An Dương Vương đã khẳng định vai trò và công lao to lớn của mình trong buổi đầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Là một vị vua yêu nước, luôn có tinh thần trách nhiệm trước đất nước, nhà vua xứng đáng được nhân dân đời đời mến phục ngợi ca.

Câu 2: Những yếu tố kì ảo trong truyện ADV – MC – TT:

- Cụ già từ phương đông tới báo tin sứ Thanh Giang Rùa Vàng giúp nhà vua xây thành ốc, cho móng thần.

- Nỏ thần bắn một phát chết chết hàng vạn tên.

- Máu Mị Châu chảy xuống biển loài trai ăn vào biến thành hạt châu.

- ADV không chết mà được Rùa Vàng đưa xuống biển.

Câu 3: Trong truyền thuyết ,Mị Châu là một cô gái trong trắng, một người vợ hiền, nhưng thần Rùa Vàng lại kết tội nàng là giặc. Theo em lời kết tội ấy có nghiêm khắc quá không?

Mị Châu là một người vợ hiền, một cô gái ngây thơ, trong trắng. Đó là phẩm chất tốt đẹp của nàng. Song trong một đất nước nhiều giặc giã, lại là một công chúa đất Âu Lạc thì chỉ có phẩm chất ấy không chưa đủ mà mà còn phải có tinh thần yêu nước và tinh thần cảnh giác giữ gìn bí mật quốc gia. Tiết lộ bí mật quốc gia, tiếp tay cho kẻ thù, nàng bị kết tội là giặc là đích đáng. Đây là sự phán quyết nghiêm khắc của nhân dân dành cho nàng công chúa ngây thơ, mù quáng. Cái chết của Mị Châu đã nêu lên bài học sâu sắc về tinh thần cảnh giác, về ranh giới giữa tình yêu và lí trí, về việc mối quan hệ giữa việc nước với việc nhà.

Câu 4: Giải thích ý nghĩa hình ảnh “Ngọc trai – giếng nước”?

Hình ảnh “Ngọc trai – giếng nước” không phải là biểu tượng của mối tình chung thủy.

Mị Châu trước khi chết đã nhận ra rằng mình bị Trọng Thủy lừa dối, lời khấn của nàng cho thấy điều đó:”Nếu một lòng trung hiếu mà bị lừa dối thì chết đi sẽ biến thành hạt châu ngọc…” sự nhẹ dạ của nàng phải trả giá bằng một sinh mạng nàng, người cha thân yêu và cả nước Âu Lạc.

Hơn nữa trước khi chết Mị Châu đã ý thức được tội lỗi nặng nề của mình nên không xin tha tội , chỉ xin “hóa thành châu ngọc để rửa mối nhục thù”. Lời khấn của nàng đã ứng nghiệm, cho nên châu ngọc ở đây chỉ có ý nghĩa minh oan.

Hình ảnh ngọc trai giếng nước chắn chắn không phải là hình ảnh của mối tình chung thủy mà chỉ là chứng minh cho sự trong sạch của Mị Châu mà thôi.

- Không phải là hình ảnh ngợi ca tình yêu Mị Châu – Trọng Thuỷ. Nó là:
+ Lời minh oan, chiêu tuyết cho Mị Châu.
+ Chứng nhận Trọng Thuỷ đã tìm được sự tha thứ trong tình cảm của Mị Châu ở thế giới bên kia.

Như vậy, “ngọc trai – giếng nước” là hình ảnh mang ý nghĩa của sự hoá giải hận thù, nói lên truyền thống ứng xử bao dung, đầy nhân hậu của dân gian đối với hai nạn nhân tỉnh ngộ muộn màng của cuộc chiến tranh xâm lược

Câu 5: Nghệ thuật của truyện?

- Xây dựng nhân vật vừa gắn với “cốt lõi sự thật lịch sử” vừa lung linh yếu tố hoang đường, kì ảo tạo nên “chất thơ và mộng” tràn đầy trong tác phẩm.
- Các chi tiết nghệ thuật, ngôn ngữ và hành động được chọn lọc để khắc sâu hình tượng nhân vật.
- Xây dựng hình ảnh nghệ thuật giàu chất tư tưởng – thẩm mĩ.

Câu 6: Suy nghĩ về Trọng Thủy

 Trọng Thuỷ là một trong ba nhân vật chính của tác phẩm. Hắn là con trai của Triệu Đà, con rể của An Dương Vương, là chồng của Mị Châu công chúa. Sang Âu Lạc theo mưu kế nham hiểm của cha mình, Trọng Thuỷ lấy Mị Châu không phải vì tình yêu mà chỉ để lợi dụng nàng thực hiện một mưu đồ chính trị, để hoàn thành nhiệm vụ gián điệp được cha hắn giao phó mà thôi. Và với danh nghĩa một người chồng, Trọng Thuỷ đã hoàn thành xuất sắc vai trò gián điệp ấy. Hắn đã lợi dụng Mị Châu, lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin, lừa gạt tình cảm của nàng để đánh cắp nỏ thần và nham hiểm hỏi Mị Châu một câu hỏi đầy dụng ý trước khi về nước với mục đích để biết cách tìm đường đuổi theo An Dương Vương nếu nhà vua chạy trốn. Chính những việc làm này của hắn là những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới bi kịch nước mất nhà tan của cha con ADV và nhân dân Âu Lạc. Hắn chính là kẻ thù của nhân dân Âu Lạc, là một kẻ rất đáng bị vạch mặt, lên án, tội lỗi đời đời.
- Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, Trọng Thuỷ cũng chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược. Trong tay của Triệu Đà, Trọng Thuỷ không hơn không kém cũng chỉ là một con bài chính trị mà thôi. Hơn nữa, mặc dù là một kẻ độc ác, Trọng Thuỷ cũng không phải hoàn toàn đã mất hết nhân tính của một con người. Chính lời nói của Trọng Thuỷ với Mị Châu trong lúc chia tay, hành động tự vẫn sau chuỗi ngày sống trong sự dày vò, ân hận của hắn đã nói lên điều đó.
- Trước lúc chia tay về nước dâng lẫy nỏ thần cho Triệu Đà, Trọng Thuỷ đã nói với Mị Châu: “Tình vợ chồng … làm dấu”. Đây không hoàn toàn là những lời dối trá, lạnh lùng mà nó ẩn chứa ít nhiều tình cảm bùi ngùi, một nỗi đau li biệt.
- Tính người của Trọng Thuỷ còn được thể hiện rõ hơn rất nhiều ở phần cuối cùng của tác phẩm khi tác giả dân gian miêu tả tâm trạng của Trọng Thuỷ sau cái chết của Mị Châu. Không đắm mình trong hào quang, danh vọng, trong hạnh phúc của sự thống trị uy quyền, sau khi Mị Châu chết, Trọng Thuỷ luôn sống trong nỗi niềm thương nhớ, trong nỗi ân hận dày vò và cuối cùng bế tắc, cùng đường hắn đã tự tìm cho mình cái chết. Trọng Thuỷ quyên sinh không phải chỉ là hành động sám hối cho một sai lầm mù quáng, mà còn là sự thức tỉnh của nhân tính, sự phủ nhận chiến tranh, sự từ chối mọi vinh quang quyền lực tìm về với cõi thiên thu để có được một tâm hồn thanh thản.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Lập dàn ý chi tiết cho đề bài sau :

Cảm nhận của em về nhân vật An Dương Vương trong “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

4. Củng cố

- Nắm được đặc trưng cơ bản của truyền thuyết qua tìm hiểu 1 câu chuyện cụ thể.

- Những hiểu biết cơ bản về “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

5. Dặn dò

- Học bài cũ. Tiếp tục tìm hiểu về nhân vật An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 20/10/2017

Tiết 37-38.

TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU - TRỌNG THUỶ

(Truyền thuyết)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Phân tích văn bản truyền thuyết theo đặc trưng thể loại để có thể hiểu đúng những ý nghĩa của những hư cấu nghệ thuật trong truyền thuyết : kĩ năng tóm tắt truyện, phân tích nhân vật truyền thuyết.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Giáo dục lòng yêu nước, ý thức đề cao cảnh giác trước kẻ thù, biết xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung, cá nhân với cộng đồng.

- Yêu gia đình, quê hương đất nước; Nhân ái khoan dung; Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại; Nghĩa vụ công dân.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

- Tóm tắt “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

3. Bài mới

I. ÔN TẬP LÍ THUYẾT

Truyền thuyết là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố lịch sử và yếu tố tưởng tượng hoang đường. Nó phản ánh quan điểm đánh giá, thái độ và tình cảm của nhân dân về các sự kiện lịch sử và các nhân vật lịch sử.

Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là câu chuyện về bi kịch mất nước của cha con An Dương Vương và bi kịch tình yêu của Mị Châu – Trọng Thủy. Từ câu chuyện ấy, nhân dân ta muốn rút ra và truyền lại cho con cháu các thế hệ sau bài học lịch sử về ý thức đề cao cảnh giác với âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Phân tích :

1.     Nhân vật An Dương Vương

Truyện có thể chia làm hai phần. Phần một (từ đầu đến… không dám đốc chiến bèn xin hoà): An Dương Vương xây thành, chế nỏ giữ nước. Phần còn lại: Bi kịch tình yêu của Mị Châu – Trọng Thuỷ gắn liền với thất bại của nước Âu Lạc. Cả hai phần của truyện đều thể hiện rõ nhận thức và thái độ của nhân dân đối với vai trò và trách nhiệm của cha con An Dương Vương trước lịch sử.

a. An Dương Vương xây thành, chế nỏ thần, đánh Triệu Đà

An Dương Vương kế tục sự nghiệp dựng nước của mười tám đời Hùng Vương. Thời ấy, Văn Lang đã có bờ cõi và nền văn hiến riêng. Vì vậy, việc chống giặc giữ nước là vấn để sống còn của dân tộc. An Dương vương đã tiến hành dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh, Phong Châu (Phú Thọ) về vùng đổng bằng Phong Khê (Đông Anh, Hà Nội ngày nay) để phát triển sản xuất và mở rộng lưu thông rồi bắt tay ngay vào việc xây thành. Đó là quyết sách đúng đắn chứng tỏ trí tuệ sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của An Dương Vương.

Việc xây thành bằng đất gặp nhiều khó khăn. Chuyện kể rằng thành cứ đắp ban ngày thì ban đêm lại đổ, xây mãi không xong. Người xưa giải thích hiện tượng ấy là do sự phá hoại của ma quỷ. Lược bỏ yếu tố hoang đường, ta có thể thấy những khó khăn trong thực tế mà An Dương vương gặp phải khi tiến hành công việc xây thành. Đó là do ông chưa nắm được đặc điểm của đất đồng bằng, do kĩ thuật còn hạn chế và chưa biết dựa vào sức dân.

Sau này, được sứ Thanh Giang tức Rùa Vàng giúp đỡ, An Dương Vương xây thành chỉ trong vòng nửa tháng là xong. Hành động lập đàn trai giới, đón mời cụ già vào điện hỏi kế xây thành, ra cửa Đông đợi sứ Thanh Giang, nghe lời Rùa Vàng diệt trừ yêu quái,… thể hiện thái độ trân trọng hiền tài của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự giúp đỡ của Rùa Vàng chứng tỏ việc xây Loa Thành của An Dương vứơng là hợp ý trời, hợp lòng người, cho nên được dân chúng ủng hộ.

An Dương Vương trước hết là một nhà quân sự xuất sắc. Ông đã biết xây thành cao, đào hào sâu để bảo vệ kinh đô. An Dương Vương được Cao Lỗ hỗ trợ trong việc chế tạo ra cung nỏ để chống quân xâm lược. Sức mạnh của thứ vũ khí ấy đã được các tác giả dân gian kì diệu hoá, thần thánh hoá bằng hình tượng nỏ thần.

Hình tượng then chốt của truyện là chiếc lẫy thần. Rùa Vàng giúp vua xây xong Loa Thành và cho nhà vua vũ khí để bảo vệ đất nước. Nỏ thắn tượng trưng cho sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, tượng trưng cho trí tuệ, sức mạnh và khát vọng chiến thắng ngoại xâm của tổ tiên ta thuở ấy.

Chiếc nỏ thẩn có khả năng bắn một phát giết hàng vạn giặc vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng bay bổng, vừa phản ánh trình độ chế tạo và sủ dụng vũ khí chiến đấu của người Âu Lạc. Quân ta đã chế tạo ra cung nỏ và đúc được mũi tôn bằng đồng. Vũ khí ấy tuy thô sơ nhưng không kém phần lợi hại trong các cuộc chiến đấu chống xâm lăng.

Khi Triệu Đà kéo quân sang xâm lược, vì An Dương Vương có nỏ thần trong tay nên quân Triệu Đà thua to, không dám đối đầu, bèn xin hoà. Chiến thắng của An Dương vương chứng tỏ sức mạnh quân sự của nhà nước Âu Lạc lúc bấy giờ, đồng thời khẳng định ý chí, tình thần đoàn kết của nhân dân ta. Đây là bài học tích cực trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

b. An Dương Vương để mất nước

Sau chiến thắng, An Dương vương sinh ra chủ quan, quên rằng nguy cơ xâm lược của kẻ thù phương Bắc luôn luôn tồn tại.

Chúng ta đau xót cho cha con An Dương vương vì sai lầm tai hại nên dẫn đến thảm hoạ mất nước. Nhà vua không phân tích được hành động cầu hoà rồi cầu hôn cho con trai của Triệu Đà thực chất là âm mưu thâm độc, chuẩn bị cho cuộc xâm lược tiếp theo. Thất bại của An Dương vương không phải chờ tới khi quân giặc tiến đến chân thành mới bộc lộ, mà bộc lộ ngay từ khi nhà vua mất cảnh giác, đồng ý cho Trọng Thuỷ vào thành.

Ông đã bằng lòng gả Mị Châu cho Trọng Thuỷ, lại còn cho ở rể, việc đó có khác chi “Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”?! Đây là sự hoà hiếu thiếu cảnh giác, tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ thù phá từ trong phá ra. Mầm mống mất nước khởi nguồn từ đây.

Sau chiến thắng, An Dương Vương không quan tâm đến việc củng cố lực lượng, không dựa vào sức mạnh đoàn kết toàn dân để chống giặc mà lại ỷ vào vũ khí, vào sự hỗ trợ của thần linh, Những nhược điểm ấy khi kẻ thù nắm được tất dẫn đến thất bại không thể tránh khỏi.

Nghe tin báo Triệu Đà lại cất quân sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương cậy có nỏ thần vẫn điểm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Thái độ chủ quan khinh địch đó đã dẫn An Dương Vương nhanh chóng đến thất bại thảm hại. Tới khi giặc đã tiến sát chân thành, An Dường Vương mới cẩm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã mất bèn bỏ chạy; Trong cơn cùng quẫn, An Dương Vương chi còn cách đem theo con gái lên ngựa, bỏ thành mà chạy về phương Nam.

Cha con An Dương Vương đã cùng đường mà quân thù thì cứ theo dấu lông ngỗng của Mị Châu rắc dọc đường truy đuổi sát sau lưng. Quả là cha con An Dương Vương đã mất thế trời che, đất chở.

Khi Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó thì An Dương Vương mới tỉnh ngộ. Đây là lời kết tội đanh thép của công lí, của nhân dân về hành động vô tình phản quốc của Mị châu. Nhà vua tự tay chém chết cô con gái yêu dấu, cũng là tự xử một cách nghiêm khắc, quyết liệt đối với sai lầm của bản thân. Nhưng tất cả đểu đã quá muộn màng. Câu chuyện kết thúc thật bi thảm!

Hành động rút gươm chém Mị Châu thể hiện lập trường dứt khoát của An Dương Vương lá đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xử án, đổng thời thể hiện sự tĩnh ngộ muộn màng trước lỗi lầm nghiêm trọng của mình.

Đây là cái giá mà ông phải trả cho sai lầm không thể sửa chữa, liên quan đến vận mệnh đất nước và dân tộc.

Hai cha con An Đương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác nên đã trực tiếp làm tiêu vong sự nghiệp và đẩy Âu Lạc vhò thảm hoạ mất nước. Đó là bài học xương máu về thái độ mất cảnh giác dối với kẻ thù dành cho những người đứng đầu, chịu trách nhiệm về sự tổn vong của quốc gia.

Hình ảnh An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, theo Rùa Vàng xuống thuỷ phủ là yếu tố kì ảo phản ánh thải độ và tìm cảm cuá nhân dân đối với ông. Nhân dân thương tiếc vị vua tài ba, ann dũng nên không muốn ông chết. Chi tiết lòng biển bao dung đón người anh hùng bất tử thể hiện sự ngưỡng mộ và thương tiếc của người xưa.

An Dương Vương đã tự tay chém đầu người con gái duy nhất của mình. Cách xử lí này hoàn toàn phù hợp với đạo lí truyền thống của dân tộc ta. Nó thể hiện lòng bao dung của dân tộc đối với những đứa con lầm lỗi nhưng đã biết cúi đầu hối hận và chịu tội. Trước đất nước, nhân dân, cách hành xử của nhà vua là đầy trách nhiệm. Thế nhưng về tình nhà, An Dương Vương chắc chắn cũng vô cùng đau đớn. Việc để cho hai cha con đoàn tụ bên nhau (khi chết) là cái kết hợp tình hợp lí và nhân hậu của nhân dân ta.

2. Nhân vật Mỵ Châu – Trọng Thủy

Mị Châu sai lầm ờ tình yêu mù quáng nên vô tình đã tự biến mình thành tòng phạm với giặc. Nàng ngây thơ chân thật đến mức nhạ dạ cả tin. Nàng dám giấu cha cho Trọng Thuỷ xem trộm nỏ thần mà quên rằng đó là con trai của kẻ thù. Từ đó, Mị Châu đã tiếp tay cho Trọng Thuỷ đánh cắp bí mật vũ khí lợi hại của quốc gia, dẫn tới thảm hoạ đất nước rơi vào tay giặc. Trên đường trốn chạy, nàng lại tiếp tục rắc lông ngỗng chĩ đường cho giặc truy đuổi vua cha. Hai hành động ấy của Mị Châu là trọng tội. Nhiều người cho rằng những hành động trên là vô tình nhưng xét cho cùng thì vl Mị Châu quá tin yêu Trọng Thuỷ nên đã mù quáng nghe theo lời chồng. Rùa Vàng gọi đích danh nàng là giặc quả không sai vì nàng đã gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Trọng Thuỷ là nhân vật đáng thương nhưng cũng thật đáng ghét. Chàng chấp nhận làm công cụ thực hiện ý đồ xâm lược của cha. Tuy là con rể An Dương vương nhưng thực chất Trọng Thuỷ là tên gián điệp lợi hại cài vào đất Âu Lạc, Bằng mọi thủ đoạn xảo quyệt, Trọng Thuỷ đã lừa Mị Châu để đánh tráo lẫy thần, sau đó nói dối là về thăm cha để mang lẫy thần về nước. Triệu Đà có được lẫy thần, cả mừng liền cất binh sang đánh chiếm Âu Lạc một lần nữa.

 

Trong khi Mị Châu ngây thơ hết lòng tin chổng thì Trọng Thuỷ lại lừa dối nàng và rắp tâm chiếm đoạt lẫy thần. Tuy vậy, những ngày ở Loa Thành, sống bên người vợ đẹp người, ngoan nết, Trọng Thuỷ đã nảy sinh tình yêu thật sự với Mị Châu. Mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thuỷ là tham vọng chiếm được Âu Lạc và tham vọng trọn tình với người đẹp cũng bắt đầu nảy sinh. Nhưng hai tham vọng đó không thể dung hoà. Vì vậy sau khi chiến thắng, đáng lẽ Trọng Thuỷ phải vui hưởng vinh quang thì chàng lại đau khổ đến mức tự tử vì ân hận và thương tiếc Mị Châu. Trọng Thuỷ tự tử vì hiểu ra rằng không thể giải quyết mâu thuẫn gay gắt trong con người mình. Cái chết của Trọng Thủy đã gợi chút xót xa, tội nghiệp trong lòng mọi người.
Mối tình Mị Châu – Trọng Thuỷ éo le là do luôn bị âm mưu xâm lược của Triệu Đà chi phối. Vì vậy, kết thúc bi thảm của mối tình đó thực sự mang ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa.

 

Tình yêu Mị Châu – Trọng Thuỷ thắm thiết nhưng bi thảm. Nhân dân ta không ca ngợi, mà chỉ dành cho họ một niềm thương xót vì hạnh phúc lứa đôi của họ bị chiến tranh làm cho tan vỡ. Mối oan tình ấy đã được đển bù bằng hình ảnh ngọc trai, giếng nước. Đây là hình ảnh thể hiện thái độ phản kháng chiến tranh xâm lược, là tiếng nói nhân đạo và cũng là cách kết thúc có hậu của truyện cổ.

3. “Cốt lõi lịch sử” của truyện là việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa và sự thực về sự thất bại của Âu Lạc trước sự xâm lược của Triệu Đà. Cái cốt lõi ấy đã được dân gian làm cho sinh động bằng việc thêm vào nhiều sự việc chi tiết thần kì như chuyện xây thành, chế nỏ; chuyện về cái chết của An Dương Vương và của Mị Châu; chi tiết về “ Ngọc trai – giếng nước”…. Chính việc thêm vào truyện các chi tiết thần kì này đã giúp cho câu chuyện thêm hấp dẫn và sinh động. Nó cũng thể hiện một cái nhìn bao dung của nhân dân ta với các nhân vật lịch sử và với tất cả những gì đã xảy ra.

II. BÀI TẬP THỰC HÀNH

Đề 1.

Kể tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy theo nhân vật An Dương Vương.

BÀI LÀM

Tôi là Thục Phán An Dương Vương vua nước Âu Lạc. Tôi cho xây thành ở đất Việt Thường nhưng hễ đắp tới đâu lại lở tới đâu lại lở tới đấy.

Một hôm có cụ già từ phương Đông tới nói: Sẽ có sứ Thanh Giang đến giúp vua xây thành. Hôm sau tôi mừng rỡ cho người ra đón mới biết sứ Thanh Giang là một con rùa vàng.

Thành xây nửa tháng thì xong, vững chãi và kiên cố. Trước khi về biển, rùa vàng còn tháo vuốt đưa cho tôi làm lẫy nỏ thần chống giặc. Có thành cao, hào sâu lại có nỏ thần, rất nhiều lần tôi đã đánh cho quân của Triệu Đà đại bại.

Đã không dám đối chiến, bèn xin hòa và cho con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn. Tôi đồng ý gả con gái Mị Châu cho Trọng Thủy, lại cho cả Trọng Thủy ở lại Loa Thành làm rể. Nhưng không ngờ, có được cơ hội tốt, Trọng Thủy đã dụ dỗ Mị Châu cho xem nỏ thần rồi đánh tráo ngay lẫy nỏ.

Quân Triệu Đà phá được nỏ thần bèn ồ ạt tấn công. Trong khi ấy nghĩ có nỏ Liên Châu tôi vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, không bố phòng gì cả. Loa Thành bị vỡ, tôi bèn mang theo con gái chạy xuống phía Nam. Thế nhưng cùng lúc ấy Trọng Thủy lại theo dấu lông ngỗng mà Mị Châu rắc ở đường đuổi theo. Cùng đường, lại nghe sứ Thanh Giang nhắc nhở Giặc ở ngay sau nhà vua đó, tôi đã tuốt kiếm chém con gái rồi cầm sừng tê bảy tấc rẽ nước đi xuống biển.

Đề 2 : Phân tích “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”.

I. Mở bài.

- Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy nêu bài học cảnh giác đầu tiên của lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Phần đầu truyện phản ánh vai trò của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ nước Âu Lạc; phần sau là bi kịch nước mất nhà tan do sự mất cảnh giác của cha con An Dương Vương.

- Những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện được thể hiện sinh động qua các tình tiết của truyền thuyết.

II. Thân bài

A. Tóm tắt truyện.

Lập nước Âu Lạc, An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa nhưng xây rồi lại đổ. Rùa Vàng giúp nhà vua xây thành, còn tặng một cái móng để làm lẫy nỏ chống giặc.

Triệu Đà ở phương Bắc xâm lược Âu Lạc. Nhờ nỏ thần, An Dương Vương thắng giặc. Triệu Đà xin hòa, cho con là Trọng Thuỷ sang cầu hôn. Nhà vua không nghi ngờ, gả con là Mị Châu cho Trọng Thủy. Mị Châu bị Trọng Thủy lừa đánh tráo lấy nỏ rồi trở về phương Bắc. Triệu Đà lại tấn công Âu Lạc, An Dương Vương bại trận, cùng con gái chạy đến vùng biên. Rùa Vàng hiện lên, kết tội Mị Châu là giặc. Nhà vua chém Mị Châu rồi đi xuống biển. Trọng Thuỷ thương tiếc Mị Châu, hối hận nhảy xuống giếng tự tử. Máu Mị Châu chảy xuống biển, loài trai ăn phải, biến thành ngọc.

B. An Dương Vương xây thành giữ nước.

- An Dương Vương dời dô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh về đồng bằng (Cổ Loa) để phát triển sản xuất và mở rộng lưu thông. Đó là quyết sách sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của An Dương Vương.

- Vua cho xây chín vòng thành ốc, đào hào sâu, tìm người chế tạo vũ khí tốt (nỏ thần) ... thể hiện tinh thần cảnh giác, sẵn sàng bảo vệ đất nước, quyết tâm chống giặc của vua tôi Âu Lạc.

- Truyền thuyết phản ánh những sự kiện trên bằng các chi tiết kì ảo. Nhân vật cụ già xuất hiện một cách bí ẩn, Rùa Vàng từ biển Đông hiện lên giúp An Dương Vương xây thành, chế nỏ đều là các chi tiết kì ảo. Những chi tiết đó nhằm khẳng định việc làm của An Dương Vương “được lòng trời, hợp lòng dân” và tính chất chính nghĩa của công cuộc dựng nước, giữ nước của An Dương Vương.

- Xâm lược Âu Lạc, Triệu Đà bị thua to, không dám đối chiến, bèn xin hòa. Điều đó nêu cao bài học cảnh giác giữ nước, khẳng định vui trò của An Dương Vương và thái độ ca ngợi cứu nhân dân đối với hành động có ý nghĩa lịch sử đó.

C. Bi kịch mất nước.

1. Triệu Đà lập mưu cầu hòa, rồi cầu hôn cho con trai. Hôn nhân Mị Châu - Trọng Thuỷ thực chất là một cuộc hôn nhân nhằm mục đích xâm lược. Triệu Đà đã sẵn có âm mưu đen tối, còn An Dương Vương thì mất cảnh giác đã nhận lời.

An Dương Vương cho Trọng Thuỷ ở rể Âu Lạc chính là “nuôi ong tay áo”. Đó là sự mất cảnh giác trầm trọng hơn, tạo cơ hội thuận lợi cho ke thù tự do vào sâu lãnh thổ Mị Châu cho Trọng Thủy xem nỏ thần chính là đã trực tiếp tiếp tay cho âm mưu của cha con Triệu Đà.

2 Hay tin Triệu Đà phát binh đánh Âu Lạc. An Dương Vương ỷ vào sức mạnh nỏ thần vẫn điềm nhiên đánh cờ. Đó là sự chủ quan khinh địch tệ hại nhất dẫn An Dương Vương nhanh chóng đến thất bại không tránh khỏi.

Hai cha con An Dương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác đã làm tiêu tan sự nghiệp và đẩy Âu Lạc đến diệt vong. Đó là bài học cay đắng về sự mất cảnh giác đối với kẻ thù.

- Câu nói của Rùa Vàng “giặc ngồi sau lưng ..” chính là lời kết tội đanh thép của công lý, của nhân dân về hành động vô tình mà phản quốc của Mị Châu. Lời tuyên án đó lập tức khiến An Dương Vương tỉnh ngộ, nhận ra bi kịch của mình. Đó cũng là bài học đắt giá về mối quan hệ cá nhân - công dân.

Hành động rút gươm chém Mị Châu là hành động quyết liệt, dứt khoát của An Dương Vương đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xứ án, cũng là hành động thể hiện sự tỉnh ngộ muộn màng đối với lỗi lầm của nhà vua.

D. Bi kịch tình yêu.

Mối tình Mị Châu - Trọng Thủy là mối tình éo le, song song và đan cài với sự nghiệp giữ nước Âu Lạc.

Bi kịch tình yêu Mị Châu – Trọng Thủy thể hiện thái độ phê phán rạch ròi của nhân dân trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Đó là bài học muôn đời cho những ai đặt tình yêu cá nhân lên trên vận mệnh của quốc gia, dân tộc, tách tình yêu khỏi những mối quan tâm chung.

Trong khi Mị Châu ngây thơ hết lòng vì chồng thì Trọng Thủy đã sẵn có âm mưu chiếm nỏ thần. Nhưng những ngày ở Âu Lạc, bên cạnh người vợ đẹp người, ngoan nết, Trọng Thủy đã nảy sinh mối tình thật sự với Mị Châu, cũng là nảy sinh mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thuỷ, tham vọng chiếm được nước Âu Lạc và trọn tình với người đẹp. Nhưng hai tham vọng đó không thể dung hòa. Vì vậy sau khi chiến thắng, đáng lẽ Trọng Thủy phải là người vui mừng hưởng vinh quang thì lại tự tử vì nỗi tiếc thương Mị Châu khôn cùng.

- Trước khi chết, Mị Châu đã kịp nhận ra mình bị lừa, mà kẻ lừa nàng lại chính là người nàng tin yêu nhất. Hơn nữa, sự nhẹ dạ của nàng đã phải trả giá rất đắt bằng chín sinh mạng nàng, sinh mạng người cha thân yêu và số phận của cả một dân tộc.

Mị Châu đã ý thức được tội lỗi nặng nề của mình, nàng không xin tha chết, chỉ xin được hóa thành châu ngọc để tẩy sạch mối nhục thù. Ngọc trai nước giếng tượng trưng cho sự tái ngộ của hai người ở kiếp sau. Đó không phải là biểu tượng của mối tình chung thuỷ mà chỉ là hình ảnh một nỗi oan tình được hóa giải.

Mị Châu dù có vô tình phạm tội cũng không thể coi là không có tội. Kết cục bi thảm của cha con An Dương Vương mãi mãi là bài học nhắc nhở ý thức công dân của mỗi người đối với cộng đồng.

III. Kết bài.

Đánh giá các nhân vật An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy.

Rút ra bài học giữ nước do sự mất cảnh giác.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Cảm nhận về nhân vật An Dương Vương trong “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

4. Củng cố

- Nắm được đặc trưng cơ bản của truyền thuyết.

- Những hiểu biết cơ bản về “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

5. Dặn dò

- Học bài cũ. Tiếp tục tìm hiểu về nhân vật An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 21/10/2017

Tiết 39-40.

TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU - TRỌNG THUỶ

(Truyền thuyết)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Phân tích văn bản truyền thuyết theo đặc trưng thể loại để có thể hiểu đúng những ý nghĩa của những hư cấu nghệ thuật trong truyền thuyết : kĩ năng tóm tắt truyện, phân tích nhân vật truyền thuyết.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Giáo dục lòng yêu nước, ý thức đề cao cảnh giác trước kẻ thù, biết xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung, cá nhân với cộng đồng.

- Yêu gia đình, quê hương đất nước; Nhân ái khoan dung; Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại; Nghĩa vụ công dân.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

- Tóm tắt “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP THỰC HÀNH

Cảm nhận về nhân vật An Dương Vương trong “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

Bài làm :

“An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” là truyện tiêu biểu có sức cuốn hút và có ý nghĩa nhất của truyền thuyết về Âu Lạc và An Dương Vương trong kho tàng văn học dân gian đồ sộ, phong phú.

Trong tác phẩm, bằng trí tưởng tượng phong phú, kết hợp giữa những yếu tố hư cấu với các yếu tố lịch sử, ông cha ta đã đưa ra cách lí giải của riêng mình về nguyên nhân mất nước Âu Lạc; bày tỏ tình cảm, thái độ và cách đánh giá về An Dương Vương, Trọng Thuỷ, Mị Châu, những nhân vật của một thời kì lịch sử. Đồng thời, thông qua tác phẩm, ông cha ta cũng để lại những bài học lịch sử cho con cháu muôn đời trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

1. Về nhân vật An Dương Vương.

a. Công lao, vai trò của An Dương Vương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Âu Lạc.

An Dương Vương vừa là một vị vua có thực trong cổ sử Việt Nam, vừa là nhân vật gắn với nhiều hư cấu li kì trong truyền thuyết. Truyền thuyết kể lại rằng, Hùng Vương thứ 18 thấy Thục Phán là người có tài, nghĩ mình không có con trai, nên theo lài khuyên của Sơn Tinh đã truyền lại ngôi báu cho Thục Phán. Cũng theo truyền thuyết, sau khi được truyền ngôi báu, An Dương Vương đã dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh về vùng đồng bằng Cổ Loa. Việc làm đó đã thể hiện ý chí và quyết sách sáng suốt của An Dương Vương, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của nhà vua. (Bởi về đồng bằng là xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước. Đồng bằng với đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi đào, thuận lợi cho việc trồng lúa nước. Đồng bằng với sông ngòi ngang dọc trùng xếp, đi thuyền, đi bộ đều dễ dàng. Nếu nội lực chưa đủ mạnh thì rừng núi hiểm yếu chính là chỗ dựa an toàn nhất, nhưng muốn phát triển thì rừng núi không phải là nơi đắc địa.)

Dời đô là quốc sách, nhưng cũng có nghĩa là phơi lưng ra giữa đồng bằng, thách thức đối phương. An Dương Vương thấy trước mối đe doạ đó, nên ngay sau khi quyết định dời đô về giữa Cổ Loa trống trải, người đã cho xây thành đắp lũy, sẵn sằng phòng thủ giặc ngoại xâm. Công việc xây thành của nhà vua gặp rất nhiều khó khăn, thành “hễ cứ đắp tới đâu lại lở tới đấy”, “tốn nhiều công sức mà không thành” nhưng với lòng yêu nước, với bản lĩnh vững vàng, không sợ khó, sợ khổ, không nản chí trước thất bại tạm thời, nhà vua đã không bỏ cuộc mà kiên trì, quyết tâm xây thành giữ nước. Việc An Dương Vương lập đàn trai giới cầu đảo bách thần, việc nhà vua đón mời cụ già có tướng lạ vào điện hỏi kế sách, ra tận cửa Đông đón xứ Thanh Giang , dùng xe bằng vàng rước Rùa Vàng vào thành đã thể hiện quyết tâm đó của nhà vua. 

Được sự giúp đỡ của Rùa Vàng, An Dương Vương đã xây được Loa Thành kiên cố, là thành trì vững chắc để chống lại kẻ thù xâm lược. Tuy nhiên, tồn tại ngay giữa đồng bằng vắng vẻ, hơn ai hết An Dương Vương là người hiểu rõ, có thành cao hào sâu cũng chưa chắc giúp được Âu Lạc đã chống lại được kẻ thù nếu như không có vũ khí lợi hại. Đó cùng là điều mà nhà vua băn khoăn nhất sau khi xây được Loa Thành. Cảm động trước tấm lòng vì dân, vì nước của nhà vua, Rùa Vàng đã cảm động tháo vuốt của mình cho An Dương Vương để làm lẫy nỏ thần. Vua lại sai Cao lỗ lào nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy thành nỏ thần có sức mạnh ghê gớm. Nhờ có Quỷ Long Thành- một hệ thống phòng thủ vô cùng kiên cố, có “Linh quang Kim thần cơ”, một loại vũ khí tấn công từ xa hiệu nghiệm, An Dương Vương đã đánh tan quân Triệu Đà khi chúng sang xâm lược Âu Lạc, khiến chúng thua lớn “chạy về Trâu Sơn đắp luỹ không dám đối chiến, bèn xin hoà”. 

Phản ánh các sự kiện lịch sử có liên quan tới An Dương Vương trong truyền thuyết, nhân dân ta đã phần nào kì ảo hoá các yếu tố lịch sử khách quan. Và chính việc sáng tạo nên những yếu tố kì ảo đan xen với các yếu tố lịch sử đã khiến cho câu chuyện thêm lung linh, kì ảo, tăng trính khái quát , ý nghĩa biểu trưng của các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Chi tiết nhà vua xây thành được rùa vàng giúp đỡ, chi tiết rùa vàng cho vuốt để An Dương Vương chế tạo nỏ thần đã khẳng định việc làm của An Dương Vương được làng dân, hợp lòng trời nên được cả thần và người cùng giúp đỡ. Đó là một cách để nhân dân ta ngợi ca công đức của nhà vua, tự hào về những chiến công và thành tựu của nhân dân thời Âu Lạc.

Như vậy ở phần đầu của tác phẩm, với vị trí là vua nước Âu Lạc, là người lãnh đạo cao nhất của một quốc gia, An Dương Vương đã khẳng định vai trò và công lao to lớn của mình trong buổi đầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Là một vị vua yêu nước, luôn có tinh thần trách nhiệm trước đất nước, nhà vua xứng đáng được nhân dân đời đời mến phục ngợi ca. 

b. Trách nhiệm của An Dương Vương trước bi kịch nước mất, nhà tan.

Bi kịch nước mất, nhà tan là trọng tâm trong phần thứ hai của tác phẩm. Trong phần này, tác giả dân gian tập trung phản ánh và khắc hoạ những nguyên nhân dẫn tới việc mất nước Âu Lạc và thể hiện thái độ, tình cảm của mình trước trách nhiệm của mỗi nhân vật liên quan.

Về phía An Dương Vương, nhà vua là người xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, là người có công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước nhưng cũng mắc sai lầm nghiêm trọng, là một trong những nguyên nhân chính đẩy Âu Lạc rơi vào thảm kịch ngàn năm Bắc thuộc, lịch sự không thể tha thứ.

Khi đánh giá trách nhiệm của An Dương Vương trong sự thất bại của Âu Lạc, một số người cho rằng, An Dương Vương sai lầm ngay từ khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà, gả con gái mình cho con trai hắn. Nhà vua đã chủ quan, mơ hồ không nhận rõ âm mưu của kẻ thù xâm lược. Nhưng trong lịch sử Việt Nam và thế giới cũng đã có không ít những cuộc hôn nhân chính trị như vậy mà mục đích thtường là để mang lại sự bình an cho đất nước. Xưa, nhà Hán ở Trung Quốc có Chiêu Quân cống Hồ,. Sau này, ở nhà Trần Việt Nam có Huyền Trân công chúa được gả cho vua Chiêm Thành,… Như vậy có thể nói, trong chính trị, hôn nhân nhiều khi chính là giao ước liên minh trong hoà bình, nhất là khi đó Âu Lạc đã từng trải qua nhiều năm chiến tranh, một cuộc hôn nhân làm giảm bớt lửa binh đao chẳng phải là hay hơn cho cư dân hai nước? An Dương Vương nhận lời cầu hôn của cha con Triệu Đà ccó lẽ cũng vì hi vọng xây dựng một liên minh tốt đẹp trong hoà bình. Tiếc rằng liên minh đó đã không thành bởi An Dương Vương thực lòng còn cha con Triệu Đà lại có sẵn âm mưu xâm lược.

Một số người khắc lại cho rằng, An Dương Vương gả con gái mình cho Trọng Thuỷ, lại nhận lời cho Thuỷ ở rể Âu Lạc là “nuôi ong tay áo”. Đó là sự mất cảnh giác trầm trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thù tự do vào thám thính đất nước. Nhưng từ xưa đến nay nhiều tộc người trên mảnh đất Việt Nam này từng có phong tục trọng mẫu, đàn ông lấy vợ phải ở rể bên nhà vợ. Phải chăng vì phong tục đó mà Trọng Thuỷ có thể điềm nhiên sang ở nhà vợ – nước Âu Lạc, mà việc đó không bị coi là khác thường? An Dương Vương đã nhận lời cầu hôn của người phương Bắc thì cũng không thể tránh được việc phải làm theo phong tục phương Nam, nhận rể ở ngay trong nhà mình. Nhưng nếu cho Trọng Thuỷ ở rể mà cả cha con An Dương Vương đều cảnh giác, giữ kín bí mật quốc gia thì liệu âm mưu của cha con Triệu Đà có điều kiện thực hiện được không? Vậy sai lầm của An Dương Vương nghiêm trọng từ đâu? Nguyên nhân nào đã đưa Âu Lạc đến diệt vong và cha con An Dương Vương bị “tan đàn, xẻ nghé”? Có thể nói, sai lầm nghiêm trọng nhất của An Dương Vương là nhà vua đã quá chủ quan, khinh địch. Nhà vua không những đã không giám sát, đề phòng Trọng Thuỷ khi hắn ở rể Âu Lạc mà khi hay tin Đà phát binh đánh Âu Lạc, An Dương Vương ỷ vào sức mạnh của nỏ thần, vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, chủ quan tự mãn, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao? Những sai lầm nghiêm trọng của người đứng đầu đất nước không còn cơ hội sửa chữa. An Dương thảm bại. Nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà, muôn dân chìm đắm trong kiếp nô lệ lầm than. Sự nghiệp dựng nước, công lao xây thành, chế tạo vũ khí để giữ nước kết tinh tù trí tuệ, mồ hôi, công sức của muôn dân, vì sai lầm của An Dương Vương, phút chốc tan tành. An Dương Vương đã phải bỏ cả thành trì để chạy thoát thân, đem theo Mị Châu hi vọng giữ lại một chút hạnh phúc gia đình. Nhưng nước đã mất thì nhà cũng tan, đến bước đường cùng, nhà vua cũng đã được Rùa Vàng cho biết: “kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc”. Hành động của An Dương Vương tuốt kiếm tự tay chém đầu con gái là hành động trừng phạt nghiêm khắc,dứt khoát của An Dương Vương đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để trừng trị kẻ đắc tội với non sông. Đặt quyền lợi của quốc gia lên trên lợi ích của gia đình, chứng tỏ nhà vua đã có sự tỉnh ngộ dù đó là sự tỉnh ngộ muộn màng, không có gì còn có thể cứu vãn, nhưng chính trong cái giờ phút thử thách quyết liệt ấy, càng khẳng định lòng yêu nước của nhà vua trước sau không thay đổi. Chính vì vậy, tuy nhà vua có mất cảnh giác chính trị để đến nỗi “cơ đồ đắm bể sâu”, nhưng trong tâm thức của dân gian, ADV vẫn mãi là một ông vua yêu nước, được nhân dân đời đời mến phục, ngợi ca. Việc không để ADV tự tử ở biển Đông như trong sử sách mà để thần Kim Quy hiện lên trao sừng tê bảy tấc cho ADV rẽ nước đi xuống biến Đông, hoà vào cõi bất tử cùng non sông, đất nước đã khẳng định tình cảm đó của nhân dân ta đối với nhà vua.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng nhân vật vừa gắn với “cốt lõi sự thật lịch sử” vừa lung linh yếu tố hoang đường, kì ảo tạo nên “chất thơ và mộng” tràn đầy trong tác phẩm.

- Các chi tiết nghệ thuật, ngôn ngữ và hành động được chọn lọc để khắc sâu hình tượng nhân vật.

- Xây dựng hình ảnh nghệ thuật giàu chất tư tưởng – thẩm mĩ.

Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy muôn đời vẫn còn giá trị từ ý nghĩa nhân văn, từ bài học cảnh giác cũng như lời nhắc nhở về cách giải quyết các mối quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng. Câu chuyện bi kịch thấm thía ấy cũng là sự thể hiện lập trường và tình cảm rõ ràng của nhân dân ta trước các vấn đề lịch sử và quan hệ con người.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Cảm nhận về nhân vật Mị Châu – Trọng Thủy trong “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

4. Củng cố

- Nắm được đặc trưng cơ bản của truyền thuyết.

- Những hiểu biết cơ bản về “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

5. Dặn dò

- Học bài cũ. Tiếp tục tìm hiểu về nhân vật An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 21/10/2017

Tiết 41-42.

TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU - TRỌNG THUỶ

(Truyền thuyết)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Phân tích văn bản truyền thuyết theo đặc trưng thể loại để có thể hiểu đúng những ý nghĩa của những hư cấu nghệ thuật trong truyền thuyết : kĩ năng tóm tắt truyện, phân tích nhân vật truyền thuyết.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Giáo dục lòng yêu nước, ý thức đề cao cảnh giác trước kẻ thù, biết xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung, cá nhân với cộng đồng.

- Yêu gia đình, quê hương đất nước; Nhân ái khoan dung; Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại; Nghĩa vụ công dân.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

- Phân tích nhân vật An Dương Vương.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP THỰC HÀNH

Đề 1:

Cảm nghĩ của anh/chị về nhân vật Mỵ Châu trong “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”.

Bài làm

Nếu ai đã từng đến xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội hẳn không thể không tìm đến với những dấu tích của thành Cổ Loa xưa, nơi có giếng Trọng Thủy, còn gọi là giếng Ngọc, đền Thượng thờ An Dương Vương, am Bà Chúa thờ Mị Châu, chứng tích gợi nhớ đến một thời “xây thành - chế nỏ”, của một bi kịch tình yêu được thần kì hóa. Truyền thuyết về An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy đã đi vào đời sống tâm linh của nhân dân ta và trở thành một nét văn hóa tín ngưỡng không thể thiếu. Cả ba nhân vật chính trong tác phẩm cuối cùng đều phải nhận lấy những kết cục khác nhau nhưng có lẽ đáng giận và cũng đáng thương nhất là nhân vật Mị Châu.

Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy có thể chia thành hai phần. Phần thứ nhất là bài học giữ nước rút ra từ những thành công của An Dương Vương và quan trọng hơn là phần thứ hai của bài học giữ nước rút ra từ sự mất cảnh giác của An Dương Vương và nhất là sự ngây thơ nhẹ dạ (và cả mất cảnh giác) của Mị Châu trong tình yêu và trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hạnh phúc cá nhân riêng tư với quyền lợi của dân tộc, đất nước. Cả hai bài học đều quan trọng như nhau. Bi kịch mất nước bắt nguồn từ sự mất cảnh giác của An Dương Vương và nhất là sự ngây thơ nhẹ dạ (và cả mất cảnh giác) của Mị Châu trong tình yêu và trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hạnh phúc cá nhân riêng tư với quyền lợi của dân tộc, đất nước.

Cả hai bài học đều quan trọng như nhau. Bi kịch mất nước bắt nguồn từ sự mất cảnh giác của An Dương Vương. An Dương Vương quá mơ hồ về bản chất tham lam, độc ác nham hiểm của kẻ thù nên đã nhận lời kết tình thông hiểu, giặc kéo vào lại chủ quan không có phòng bị gì nên bị thua chạy thảm hại. Sau nữa, nó lại được tạo điều kiện từ sự nhẹ dạ, cả tin của Mị Châu. Vô tình tiếp tay cho hành động xâm lược của kẻ thù, Mị Châu vừa đáng giận, đáng trách vừa đáng thương. Mị Châu đáng giận vì nàng phạm phải những sai lầm lẽ ra không thể có ở một nàng công chúa. Nỏ thần là bí mật quốc gia, là sức mạnh bí ẩn làm nên sự bách chiến bách thắng của nước Đại Việt, vậy mà, vì thứ tình cảm vợ chồng cá nhân, riêng tư, để thỏa mãn điều mà nàng cho là trí tò mò của chồng đã nén lấy nỏ thần cho chồng xem, để đến nỗi nỏ thần bị đánh tráo mà không biết. Làm lộ bí mật quốc gia cho một kẻ sẵn có âm mưu xâm lược, Mị Châu đã không thể ngờ hậu quả những hành động của mình nghiêm trọng đến nhường nào.

Hành động rắc lông ngỗng khi ngồi sau yên ngựa của cha để chạy thoát thân cũng chỉ là một hành động vô tình, bởi: Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có tấm áo lông ngỗng thường được mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau. Chỉ đơn thuần là nghĩ đến hạnh phúc của cá nhân mình nhưng cuối cùng không thể cứu nhau mà lại còn là dấu cho quân giặc đuổi theo, để cuối cùng nàng phải chịu cái chết như một kẻ “giặc trong”. Sai lầm và tội lỗi của Mị Châu là không thể chối cãi và nàng bị kết tội hoàn toàn đích đáng. Cũng nhờ thế mà bài học về tinh thần cảnh giác càng trở nên thấm thía và sâu sắc.

Tuy vậy, dân gian vẫn luôn rất công bằng và đầy lòng nhân ái. Người xưa chỉ ra lỗi lầm của Mị Châu nhưng cũng tìm thấy ở đó những căn nguyên sâu xa khiến cho ta thấy thực ra nàng cũng chỉ là một nạn nhân, một nạn nhân đáng thương. Sai lầm của nàng xuất phát đầu tiên từ sai lầm của An Dương Vương. An Dương Vương gả Mị Châu cho Trọng Thủy cũng đồng nghĩa với việc nhà vua giao cho nàng nghĩa vụ trách nhiệm của một người vợ là cũng phải theo chồng. Đấy là chưa kể đến việc tình yêu và nghĩa vợ chồng có thể làm lu mờ nghĩa vụ và trách nhiệm.

Mị Châu vì quá cả tin mà đã không thể ngờ được người chồng của mình lại là một kẻ “gián điệp”; thế nên mới mang bí mật nước mình mà san sẻ với Trọng Thủy như một câu chuyện san sẻ thường hay gặp ở những cặp vợ chồng. Cũng giống như việc tiết lộ bí mật làm cho quân nước nhà bại trận, việc rắc lông ngỗng một lần nữa lại vô tình chỉ lối cho kẻ thù đuổi theo hai cha con. Hai lần nàng liên tiếp phạm lỗi mà không hề ý thức được lỗi lầm mình mắc phải. Tội lỗi được gây nên tính từ sự ngây thơ, cả tin nên thật đáng thương. Việc Rùa Vàng kết tội Mị Châu làm giặc tuy đẩy nhân vật đến số phận bi thảm nhưng lại là một kết thúc cần thiết theo quan niệm của nhân dân.

Rõ ràng Mị Châu có tội. Tội trực tiếp gây nên mất nước ấy của nàng xứng đáng nhận lấy cái chết. Đây là bài học trực tiếp để răn dạy tinh thần đề cao cảnh giác trong sự nghiệp giữ gìn đất nước. Phê phán Mị Châu bằng “bản án tử hình” nhân dân cũng thấu hiểu rằng nàng mắc tội do chủ ý không phải do vô tình, ngây thơ nhẹ dạ và cả tin. Bởi thế, họ đã xếp cho nàng được biến thành ngọc trai đúng như lời nguyền trên bờ biển. Máu Mị Châu chảy xuống biển, trai sò ăn được thì đều biến thành ngọc châu, xác đem về ném ở Loa Thành thì biến thành ngọc thạch. Mị Châu bị trừng phạt cho những tội lỗi nhưng cũng đã được chiêu tuyết cho tâm hồn trong sáng và ngây thơ của mình. Hình ảnh ngọc trai - giếng nước ở cuối tác phẩm là một sáng tạo hết sức hoàn mĩ. Nó thuộc về thái độ ứng xử vừa nghiêm khắc, vừa nhân đạo vừa thấu lí đạt tình của nhân dân ta.

Nhân vật Mị Châu và kết cục của nàng đã khiến cho chúng ta vừa giận, lại vừa đồng cảm và xót thương sâu sắc. Mong rằng ở một thế giới khác, nàng đã tự nhận được bài học cho bản thân mình có được cuộc sống đúng đắn và thanh thản hơn. Và khi ấy, số phận Mị Châu sẽ khác...

Đề 2.

Cảm nhận về nhân vật Mị Châu trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ, có người khẳng định: “Phút sai lầm của một người, dân tộc phải trả giá bằng ngàn năm nô lệ. Tội đó của Mị Châu không thể dung tha”.

Lại có người viết:

Am Mị Châu thờ bức tượng không đầu

                   Cảnh báo một trái tim khờ dại.

                   Thử hỏi, nửa thế giới này đang tồn tại

                   Đã yêu rồi, ai không giống Mị Châu?

(Vô đề – Hạnh Mai, Tạp chí Người Hà Nội, số 115, 8- 2009)

Thông qua việc phân tích nhân vật Mị Châu, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên và đưa ra quan điểm của bản thân mình. 

Hướng dẫn cách làm :

Yêu cầu về kỹ năng

Hiểu đề, biết cách làm bài nghị luận văn học. Biết giải thích ý kiến, biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ nhận định. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, hành văn trôi chảy, văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.

Yêu cầu về kiến thức

Giải thích ý kiến

 Ý kiến thứ nhất nhấn mạnh vào hậu quả sự sai lầm của Mị Châu, từ đó đưa ra lời luận tội nghiêm khắc.

– Ý kiến thứ hai (phát biểu ở dạng tác phẩm thơ) thiên về tìm nguyên nhân của sự sai lầm,  đặt ra câu hỏi nhằm bênh vực Mị Châu, cho sự “khờ dại” đó là bản chất của tình yêu, bản chất của người phụ nữ khi yêu.

Mỗi ý kiến một quan điểm đánh giá khác nhau về nhân vật Mị Châu, kẻ kết tội, người bênh vực. Đó cũng là sự phong phú trong tiếp nhận văn học, sự hấp dẫn mà hình tượng văn học tạo ra.

Phân tích nhân vật Mị Châu, bình luận những ý kiến trên.

Phân tích nhân vật

– Giới thiệu khái quát về nhân vật

– Sự sai lầm của Mị Châu:

+ Mị Châu không chỉ là một người dân của đất nước Âu Lạc mà còn là một nàng công chúa, có vai trò quan trọng đối với cả quốc gia, nhưng nàng đã ngây thơ không cảnh giác, coi bí mật quốc gia như tài sản riêng của gia đình. Nàng cho Trọng Thuỷ xem nỏ thần, lại còn giảng giải cho y cách sử dụng nỏ. Hành động đó đã vô tình tiếp tay cho kẻ thù có thêm cơ hội thôn tính nước Âu Lạc.

+ Khi chiến tranh xảy ra, Mị Châu vẫn rắc lông ngỗng dọc đường chạy loạn. Một lần nữa Mị Châu đã vô tình chỉ dẫn cho quân giặc chạy theo, đưa hai cha con đến chỗ cùng đường tuyệt lộ. Nàng chỉ kịp nhận ra sự thật đau lòng trước lúc rơi đầu.

– Nguyên nhân của sự sai lầm: sự thiếu cảnh giác của bản thân nàng.

– Hậu quả của sự sai lầm: Dân tộc rơi vào chiến tranh, loạn lạc, nước mất, nhà tan. Nàng chết dưới lưỡi kiếm oan nghiệt của cha.

– Thái độ của tác giả dân gian với sai lầm đó của Mị Châu:

+ Tác giả dân gian đã để thần Kim Quy hiện lên quát lớn “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó”. Câu nói ấy cũng đồng thời là lời kết tội đanh thép của công lí, của nhân dân cho hành động vô tình mà phản quốc của Mị Châu. Đó cũng là bài học đắt giá về mối quan hệ giữa tình cảm cá nhân với trách nhiệm công dân.

+ Hình ảnh máu Mị Châu chảy xuống biển thành ngọc, xác của nàng biến thành ngọc thành là những yếu tố kì ảo, minh chứng cho tấm lòng trong trắng mà bị lừa dối của nàng. Hình ảnh đó phần nào thanh minh cho sự vô tình gây tội của Mị Châu và thể hiện thái độ cảm thông, thương xót, bao dung của nhân dân đối với nàng. 

Bình luận hai ý kiến

– Ý kiến thứ nhất đúng khi luận tội Mị Châu với những hậu quả mà sai lầm của nàng đã gây ra. Ý kiến thứ hai tỏ ra có lý khi tìm nguyên nhân của sự sai lầm là do bản chất của trái tim yêu.

– Tuy nhiên, cần đặt tình yêu đôi lứa trong mối quan hệ với vận mệnh quốc gia, vận mệnh

cộng đồng, để thấy: Trong một đất nước nhiều giặc giã, luôn đứng trước nguy cơ của những cuộc xâm lược, một nàng công chúa chỉ biết lắng nghe tiếng nói của con tim, của tình yêu mà vô tình với sự sống còn của xã tắc chính là có tội.

– Ngay bản thân Mị Châu trước khi chết cũng nhận ra tội lớn của mình, nàng chỉ mong rửa tiếng “bất trung, bất hiếu” chứ không kêu oan, cũng không xin tha tội. Mị Châu được người Âu Lạc xưa và người Việt Nam đời đời thương xót chính là vì đã biết tội, dám nhận tội và cam lòng chịu tội.

Quan điểm của cá nhân

HS có thể nêu quan điểm riêng của bản thân mình theo nhiều cách khác nhau vẫn có thể được chấp nhận, miễn là có các lập luận và lí lẽ logic, thuyết phục.

BÀI TẬP VỀ NHÀ

Nhập vai nhân vật Trọng Thủy sau khi chết, xuống dưới thủy cung kể tiếp truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy ? Từ truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy, em rút ra được bài học gì cho bản thân sau khi học xong tác phẩm?

4. Củng cố

- Nắm được đặc trưng cơ bản của truyền thuyết.

- Những hiểu biết cơ bản về “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

5. Dặn dò

- Học bài cũ. Tiếp tục tìm hiểu về nhân vật An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 22/10/2017

Tiết 43-44.

TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU - TRỌNG THUỶ

(Truyền thuyết)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Phân tích văn bản truyền thuyết theo đặc trưng thể loại để có thể hiểu đúng những ý nghĩa của những hư cấu nghệ thuật trong truyền thuyết : kĩ năng tóm tắt truyện, phân tích nhân vật truyền thuyết.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Giáo dục lòng yêu nước, ý thức đề cao cảnh giác trước kẻ thù, biết xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng và chung, cá nhân với cộng đồng.

- Yêu gia đình, quê hương đất nước; Nhân ái khoan dung; Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại; Nghĩa vụ công dân.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

- Ý nghĩa hình ảnh ngọc trai – giếng nước.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP THỰC HÀNH

Đề 1.

Bài học rút ra từ “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”.

Bài làm :

Suốt bốn ngàn năm lịch sử, Việt Nam có bao nhiêu câu chuyện dựng nước và giữ nước. Nhưng có lẽ bài học nguyên thủy nhất, được lưu truyền bởi nó để lại bài học sâu sắc nhất là “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”.

Trong một bài thơ của mình, nhà thơ Tố Hữu:

Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu,

Trái tim lầm chỗ để trên đầu,

Nỏ thần vô ý trao tay giặc,

Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.

Nhưng có lẽ nào truyền thuyết lại chỉ đơn thuần kể lại cho bao thế hệ sau này câu chuyện về sự “vô ý” của một cô công chúa? Đọc Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy, chúng ta không chỉ được chứng kiến bị kịch của đất nước, của dân tộc trước đây hàng ngàn năm. Bi kịch khởi nguồn từ tham vọng xâm chiếm, thôn tính Âu Lạc của lũ giặc phương Bắc, cầm đầu là Triệu Đà. Nhưng bao lần đưa quân sang đánh Âu Lạc là bấy nhiêu lần quan quân Triệu Đà thất bại thảm hại trước nỏ thần của An Dương Vương. Sự phù trợ, hậu thuẫn của sứ Thanh Giang đã mang lại sức mạnh vô địch cho nhân dân Âu Lạc, đưa đất nước thoát khỏi họa xâm lăng mang lại hòa bình, yên ấm cho muôn dân trăm họ. Nhưng cũng chính bởi xây được thành cao, hào sâu, và đặc biệt có được nỏ thần trong tay mà An Dương Vương trở nên chủ quan khinh địch. Khi Triệu Đà cầu hôn, An Dương Vương đã vô tình gả con gái là Mị Châu cho con trai Triệu Đà là Trọng Thủy. Sự vô tình đó chính là tia lửa sau này nhen lên thảm họa cho nhân dân đất nước Âu Lạc. An Dương Vương đã không lường được lòng dạ hiểm độc của cha con Triệu Đà. Điều này bắt nguồn từ sự lơ là, mất cảnh giác của An Dương Vương từ khi có nỏ thần trong tay. Cha vô tình còn con gái lại quá ngây thơ. Nghe Trọng Thủy dỗ, Mị Châu đã thuận cho xem nỏ thần – báu vật quốc gia - thử quốc khí trấn giữ sự an nguy của đất nước. Nàng đâu có biết mình đã mắc kế hiểm của cha con Triệu Đà. Chắc chắn Mị Châu không thể ngờ người chồng mà mình hết lòng thương yêu lại đánh tráo lẫy thần, đem về nước hắn.

Cha con Triệu Đà lại một lần nữa đem quân xâm chiếm Âu Lạc. An Dương Vương cậy có nỏ thần, vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Nhưng hồi cuối của cuộc chiến đã đến. An Dương Vương phải đưa Mị Châu chạy về phương Nam. Cho đến khi sứ Thanh Giang từ biển cả hiện lên kết tội Mị Châu, lưỡi kiếm của người cha đã vung lên trước đứa con gái độc nhất của mình. Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm trừng phạt của cha nhưng lời thỉnh cầu của nàng ứng nghiệm. Máu chảy xuống dòng nước, trai ăn được đều biến thành hạt châu. Trọng Thủy không còn vợ, thương tiếc khôn nguôi lao đầu xuống giếng tự vẫn. Đem những hạt ngọc trai kia rửa vào giếng nước này thì thấy trong sáng thêm.

Mặc dù dân gian đã thêu dệt thêm nhiều chi tiết nghệ thuật li kì, hấp dẫn nhưng dấu ấn bi kịch của câu chuyện vẫn không thể xóa nhòa mờ. Trước hết, có thể thấy đó là bi kịch của đất nước, bi kịch thuộc về một thời đại lịch sử. An Dương Vương vì mất cảnh giác đã để mất nước vào tay Triệu Đà. Mị Châu vì cả tin, ngây thơ vô tình tiếp tay cho hành động gian sảo của Trọng Thủy. Đem bí mật quốc gia tiết lộ cho kẻ thù của dân tộc (dù kẻ đó là chồng nàng), Mị Châu đã mang trọng tội với nhân dân, đất nước. Với tư cách là vợ Trọng Thủy, nàng vẫn có quyền từ chối lời đề nghị xem nỏ thần của chồng lắm chứ? Sự mất cảnh giác của cha con An Dương Vương là nguyên nhân dẫn đến sự thương vong của đất nước, của dân tộc. Từ khía cạnh này, câu chuyện trở thành bài học đắt giá về tinh thần cảnh giác kẻ thù đối với mọi con dân của đất nước Việt Nam.

Từ Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy, chúng ta còn được nhận một bài học quí giá nữa: bài học về cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng với chung, giữa nhà nước, giữa cá nhân với cộng đồng. Các quan hệ đó được tác giả dân gian khéo léo lồng ghép trong mối quan hệ cha con, vợ chồng. Mị Châu là con gái An Dương Vương, là công chúa của nước Âu Lạc nhưng khi lấy Trọng Thủy – con trai kẻ thù của đất nước mình rồi, nàng là vợ Trọng Thủy. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu…”, chắc chắn Mị Châu nhất nhất phải theo Trọng Thủy và cũng không thể dựa vào đó và nói rằng, Mị Châu hoàn toàn vô tội khi đáp ứng lời thỉnh cầu được xem nỏ thần – báu vật quốc gia của Trọng Thủy. Khước từ Trọng Thủy, Mị Châu chỉ phật lòng một người nhưng nghe lời dỗ của Trọng Thủy, nàng lại phụ cả thiên hạ của vua cha, phụ hết thảy muôn dân trăm họ. Mị Châu đã không suy xét hành động của cá nhân mình nên nàng không thể hài hòa các mối quan hệ với nhau. Tin theo chồng, nàng đã phản bội cha và nghiêm trọng hơn là phản bội đất nước. Lời phán quyết của nhân dân về hành động vô tình nghiêm trọng mà nàng đã gây ra. Vậy nên hành động tuốt kiếm chém đầu đứa con gái của An Dương Vương không phải là hành đông giết con của người cha mà là hành động trừng phạt kẻ có tội của người đứng đầu Nhà nước. Không vì tình riêng mà dung tha cho con mình, An Dương Vương đã xử trí hết sức chính xác, công bằng.

Giá như An Dương Vương không mất cảnh giác và Mị Châu ý thức một cách rõ ràng về địa vị của mình trong phạm vi gia đình, phạm vi đất nước, chắc chắn bi kịch nước mất nhà tan sẽ không xảy ra. Nhưng câu chuyện đã thuộc về lịch sử. Chúng ta chỉ có thể nghe lại, đọc lại và chiêm nghiệm về những bài học quí giá mà ông cha ta gửi gắm trong mỗi chi tiết nghệ thuật, mỗi hình tượng thẩm mĩ.

Đề 2:

 Bài học ứng xử của nhân dân qua truyền thuyết “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

Bài làm

“Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” là một trong những câu chuyện có sức hấp dẫn được lưu truyền trong dân gian về buổi đầu của lịch sử dân tộc – một câu chuyện vừa mang nét hiện thực vừa mang nét huyền thoại thời Âu Lạc. Hơn thế nữa, đây cũng là tác phầm mang dấu ấn bi kịch sớm nhất trong văn chương dân tộc. Giếng Mị Châu ở Đông Anh còn đó, bên cạnh bài học về việc cần đề cao cảnh giác với kẻ thù, tấm oan tình còn để lại những bài học mang giá trị nhân văn sâu sắc.

            Mị Châu là con gái vua An Dương Vương – người con gái trong sáng, ngây thơ, tin tưởng tình yêu một cách chân thành cuối cùng đã bị chính người chồng đưa vào bẫy, gây ra cảnh nước mất nhà tan. Trọng Thủy làm rể của An Dương Vương. Mọi nguyên nhân, bi kịch trước hết đều bắt đầu từ An Dương Vương khi đã để tình riêng lấn át tầm nhìn của một đấng minh quân. Nhất là, kẻ ở rể lại phục vụ cho dã tâm của Triệu Đà – lấy bí quyết nỏ thần để cướp nước. Sự mất cảnh giác đáng trách của An Dương Vương làm mất nước đã đành nhưng hậu quả của nó lại mang ý nghĩa bi kịch là làm nên cảnh sinh ly tử biệt, tan vỡ tình duyên của Mị Châu – Trọng Thủy.

            Và trước những sai lầm mà vua An Dương Vương đã gây ra, nhân dân ta đã thể hiện lối sống công bằng, nghiêm minh và trừng phạt nhà vua một cách thích đáng. Đau đớn thay khi nhà vua phải tự tay chém chết con gái của minh và phải hứng chịu những nỗi đau, sự mất mát ấy. Nhưng chính hành động đó đã chứng tỏ nhà vua đã có sự tỉnh ngộ dù đó chỉ là sự tỉnh ngộ muộn màng, không có gì có thể cứu vãn. Do có công với đất nước nên nhân dân không để ông chết mà muốn ông bất tử hóa, được hóa thánh trong đời sống tâm linh của dân tộc, đó vừa là sự trừng phạt nhưng cũng vừa thể hiện sựu trân trọng, biết ơn với tài năng, công lao, vai trò đối với sự nghiệp dựng nước, giữ nước của vua An Dương Vương. Có thể nói, sai lầm lớn nhất của vua An Dương Vương là nhà cua đã quá chủ quan, khinh địch và đây cũng chính là bài học về tinh thần cảnh giác, một lời nhắc nhở không được ngủ quên trên chiến thắng.

            Tuy nhiên, nếu sự mất cảnh giác của vua An Dương Vương là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, ngây thớ của Mị Châu là nguyên nhân trực tiếp gây nên cảnh mất nước. Xuất hiện phần sau tác phẩm, khi nhắc tới Mị Châu đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, người lên án, kẻ bênh vực. Những người bênh vực thì lấy tam tong- một quan điểm đạo đức thời phong kiến để bênh vực cho nàng. Họ cho rằng Mị Châu là người con gái hiền thục, tròn đạo hiếu, vâng lời cha lấy chồng, lấy chồng thì một lòng tin yêu chồng. Sao có thể trách nàng được? nhưng họ đã quên rằng, trong một đất nước có nhiều giặc giã, một nàng công chúa chỉ biết làm trọn chữ “tòng” mà vô tình với vận mệnh quốc gia là có tội. Chính vì vậy, nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng. Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối với đất nước, nhân dân ta không những đã để cho Rùa Vàng kết tội đanh thép, không khoan nhượng gọi nàng là giặc mà còn để nàng chết dưới lưỡi gươm nghiêm khắc của vua cha. Nhưng thái độ và cách đánh giá của nhân dân lại vừa thấu tình vừa đạt lý bởi Mị Châu có tội nhưng tội lỗi mà nàng gây ra không phải là chủ ý của nàng mà do quá nhẹ dạ cả tin, yêu chồng bị lừa dối mà mắc tội. Hơn nữa, nàng cũng tỉnh ngộ nhận ra kẻ thù và chấp nhận một cái chết đau đớn nên khi chết, nhân dân ta để nàng hóa thành ngọc thạch, máu biến thành ngọc trai. Sáng tạo nên chi tiết thần kì, ứng nghiệm với lời cầu khẩn trước khi chết của Mị Châu, nhân dân ta đã bày tỏ thái độ bao dung, niềm cảm thông mà minh oan cho nàng.

            Trước cái chết đau xót của Mị Châu, Trọng Thủy sẽ phải sống ra sao? Trọng Thủy phải trả giá cho sự lừa dối của mình khi hắn chỉ còn mang được xác của Mị Châu về chon cất. Với kẻ cướp nước, nhân dân ta không để cho hắn chiếm đoạt và tiếp tục lừa gạt Mị Châu. Nhưng điều đáng nói hơn là cái chết lao đầu xuống giếng tự tử của Trọng Thủy. Nhiều ý kiến cho rằng Trọng Thủy là con người mưu mô xảo quyệt và tình cảm mà hắn dành cho Mị Châu đề là giả dối. Ta có thể thấy Trọng Thủy cũng chỉ là nạn nhân của cuộc chiến tranh và trong tay Triệu Đà, Trọng Thủy không hơn không kém chỉ là một quân bài chính trị mà thôi. Hơn nữa, mặc dù là một kẻ độc ác, Trọng Thủy hoàn toàn cũng không phải là mất hết nhân tính của một con người. Chính lời nói của Trọng Thủy với Mị Châu trong lúc chia tay, hành động tự vẫn sau chuỗi ngày sống trong sự giày vò, ân hận của hắn nói lên những điều đó. Có lẽ cái chết thê thảm của Mị Châu là lời cảnh cáo dữ dội nhất, đanh thép nhất đối với Trọng Thủy. Nếu Trọng Thủy thực sự yêu nàng thì giờ đây, oan hồn của nàng cũng không chấp nhận tình yêu ấy vì trước khi chết nàng đã gọi chồng mình là kẻ lừa dối. Bị kịch của Trọng Thủy là bi kịch của một nạn nhân trong một âm mưu chính trị. Triệu Đà thắng lợi nhưng mất con trai, Trọng Thủy thành công nhưng trở thành kẻ lừa dối, đê hèn và phải chịu nỗi đau mất vợ. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước ở cuối truyện giảm nhẹ phần nào bi kịch về tình yêu của đôi trai tài gái sắc – nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa mà thôi. Sự lừa dối của Trọng Thủy là lời cảnh tình người đời: “Chỉ có tình yêu chân thành mới được đền đáp xứng đáng, tình yêu chân thành không bao giờ đồng hành với những âm mưu toan tính thấp hèn, với tham vọng cướp nước”.

            Quan điểm yêu ghét của mỗi người được thể hiện thật minh bạch, rõ ràng. Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy muôn đời vẫn có những giá trị ý nghĩa nhân văn, từ bài học cảnh giác đến lời nhắc nhở về cách giải quyết cái chung và cái riêng, việc nước và việc nhà. Truyền thuyết ấy như ta vẫn biết chứa đựng bài học mất nước sâu sắc và không ai có thể phủ nhận được điều đó, nhưng chỉ nhắc đến bi kịch đó thôi là chưa đủ mà còn ẩn sâu trong bi kịch tình yêu giữa Mị Châu và Trọng Thủy. Có thể nói, truyện có sức sống lâu bền chính là nhờ những bài học nhân sinh sâu sắc, quý giá, có giá trị muôn đời mà các tác giả dân gian đã gửi gắm vào đó. Thông qua tác phẩm, em rút ra được nhiều bài học quý giá và cách ứng xử của bản thân, không chủ quan, coi thường đối phương để tránh gây ra những sai lầm đáng tiếc như vua An Dương Vương ngày trước. Đặc biệt, mỗi con người cần tỉnh táo, sáng suốt để phân biệt rõ bạn thù và cần đặt lý trí lên trên tình cảm cá nhân. Mỗi cá nhân phải khẳng định sức mạnh của riêng mình nhưng cũng cần hòa nhập vào cộng đồng, không được để quyền lợi cá nhân lấn át cộng đồng, đồng thời cộng đồng cũng phải tôn trọng, đối xử bằng tình yêu thương với cá nhân, biết khoan dung, độ lượng, nâng đỡ cá nhân đứng dậy sau đau thương, vấp ngã.

            Từ câu chuyện Mị Châu – Trọng Thủy, nhân dân muốn gửi gắm đến chúng ta một thông điệp: Con người cần được tha thứ, cần biết cách tha thứ thì mới có đủ sức mạnh niềm tin để bước tiếp trên đường dài nhiều oan nghiệt, lắm chông gai. Câu chuyện truyền thuyết nhiều lần nhắc đến sự bao dung, đó cũng là sự nhân đạo, nhân văn trong truyền thống văn hóa Việt Nam tự bao đời nay. “Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” muôn đời vẫn còn giá trị từ ý nghĩa nhân văn, từ bài học cảnh giác cũng như lời nhắc nhở về cách giải quyết các mối quan hệ riêng – chung, giữa cá nhân và cộng đồng. Câu chuyện bi kịch thấm thía ấy cũng là sự thể hiện lập trường và tình cảm rõ ràng của nhân dân ta trước vấn đề lịch sử và quan hệ con người.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Tấm lòng nhân đạo của dân gian thể hiện qua “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”.

4. Củng cố

- Nắm được đặc trưng cơ bản của truyền thuyết.

- Những hiểu biết cơ bản về “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.

5. Dặn dò

- Học bài cũ. Làm bài tập về nhà.

- Chuẩn bị bài : Khái quát truyện cổ tích.

Ngày soạn :27/10/2017

Tiết 45-46.

KHÁI QUÁT TRUYỆN CỔ TÍCH

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc-hiểu một truyện cổ tích thần kì, nhận biết truyện cổ tích thần kì qua đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Có được tình yêu đối với người lao động, củng cố niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện, của chính nghĩa trong cuộc sống. Biết yêu lẽ phải, công bằng, biết đấu tranh để bảo vệ cái thiện, chính nghĩa, biết lên án diệt trừ cái ác, cái xấu.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra phần bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Truyện cổ tích là một loại truyện dân gian phản ánh cuộc sống hằng ngày của nhân dân ta. Trong truyện có một số kiểu nhân vật chính: nhân vật bất hạnh (người mồ côi, con riêng, người em út, người có hình dạng xấu xí,...), nhân vật có tài năng kì lạ, nhân vật thông minh, nhân vật ngốc nghếch, nhân vật là động vật (các con vật biết nói năng, có hoạt động và tính cách như con người,...).

Trong truyện cổ tích thường có những yếu tố hoang đường, kì ảo, đóng vai trò cán cân công lí, thể hiện khát vọng công bằng, mơ ước và niềm tin của nhân dân về sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác, cái tốt với cái xấu...

2. Truyện cổ tích được chia làm ba loại:

- Truyện cổ tích về loài vật: nhân vật chính là các con vật. Từ việc giải thích những đặc điểm, thói quen, quan hệ của các con vật, tác giả dân gian đúc kết những kinh nghiệm về thế giới loài vật và các vấn đề đạo đức, kinh nghiệm sống trong xã hội loài người.

- Truyện cổ tích thần kì: có nhiều yếu tố thần kì, kể về các nhân vật như người em út, người mồ côi, người có tài năng kì lạ...

- Truyện cổ tích sinh hoạt kể về sự thông minh, sắc sảo, tài phân xử của các nhân vật gắn với đời thực, ít có hoặc không có các yếu tố thần kì.

3. Truyện cổ tích thần kì ra đời từ giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy, phát triển mạnh trong xã hội có giai cấp, nên đề tài của truyện cổ tích thần kì chủ yếu hướng đến những vấn đề như:
+ Phản ánh hiện thực xã hội phân chia giai cấp, kể về số phận của những kiểu nhân vật người con riêng, người em, người lao động bất hạnh, người dũng sĩ người mang lốt, người thông minh, tài giỏi.
+ Phản ánh ước mơ công lí, ước mơ đổi thay số phận cho những nhân vật bất hạnh.
+ Nêu những bài học theo quan điểm đạo đức của nhân dân như nghĩa bạn bè, tình vợ chồng, lòng yêu thương con người với bức tranh phản chiếu muôn vàn nỗi éo le, phức tạp trong quan hệ xã hội.
4. Là thể loại tự sự dân gian, nên những yếu tố thi pháp cơ bản cần được khảo sát ở truyện cổ tích là hệ thống nhân vật, kết cấu, cốt truyện (mô típ, típ) yếu tố thần kì.
Nhân vật chính: Nếu như nhân vật chính của thần thoại là các vị thần, nhân vật chính của truyền thuyết là các nhân vật lịch sử có tầm vóc lớn lao đối với lịch sử dân tộc hoặc một địa phương nào đó thì nhân vật chính trong truyện cổ tích thần kì là những người lao động bình thường, chịu nhiều bất hạnh, thua thiệt trong cuộc sống. Phân tích truyện cổ tích phải chú ý đến phương pháp so sánh loại hình, nghĩa là đặt truyện hay nhân vật trung tâm trong kiểu truyện hay kiểu nhân vật cùng loại. Nhân vật của truyện cổ tích thần kì gồm một số kiểu sau đây:
+ kiểu nhân vật người em: Người em trai trong truyện Cây khế, cô em út trong truyện Sọ Dừa.
+ Kiểu nhân vật người con riêng: tiêu biểu là Tấm trong Tấm Cám.
+ Kiểu nhân vật người mang Lốt: Sọ Dừa trong Sọ Dừa, chàng Rắn trong Chàng Rắn, nàng Ốc trong Nàng Ốc,…
+ Kiểu nhân vật dũng sĩ : Thạch Sanh trong Thạch Sanh…

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Có ý kiến cho rằng: “Truyện cổ tích thần kì là những hư cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước”.

Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Chứng minh qua một số truyện cổ tích đã được học.

BÀI LÀM

Con người luôn hướng đến những điều tốt đẹp về một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc hơn, một cuộc sống bình đẳng, nơi đó cái thiện sẽ lên ngôi chiến thắng cái ác. Những ước mơ ngàn đời ấy được thể hiện rõ nét qua những câu chuyện cổ tích bình dị, mang cả điệu hồn dân tộc, ru ta lớn khôn từ thời tấm bé. Khi thực tại quá tối tăm thì những người dân lao động chỉ biết tìm thấy chút ánh sáng le lói cháy lên qua những ngọn nến ước mơ nơi cuối đường hầm. Chính vì thế mà đã có nhận định cho rằng: “Cổ tích thần kì là những hư cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước”.

Truyện cổ tích thần kì là loại tiêu biểu nhất của truyện cổ tích. Những truyện thuộc tiểu loại này thường ra đời từ rất sớm và những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích đều có thể tìm thấy ở kiểu truyện này. Đặc trưng nổi bật của truyện cổ tích là sử dụng yếu tố kì ảo một cách đậm đặc. Đó là một yếu tố không thể thiếu được của cốt truyện, phản ánh mhữmg ước mơ, nguyện vọng về một xã hội lí tưởng của nhân dân và kết thúc truyện thường có hậu.

Truyện cổ tích tập trung phản ánh số phận của những con người nhỏ bé, khốn khổ, tủi nhục trong xã hội đầy áp bức bất công… Mỗi nhân vật có một số phận khác nhau mhưng đều có chung những phẩm chất tốt đẹp: hiền lành, tốt bụng, tài năng. Đó là anh Khoai nghèo khó, bần hàn nhưng cần cù, chất phác; là chàng Sọ Dừa đội lốt xấu xí nhưng chăm chỉ, hiền lành; là chàng Thạch Sanh có số phận bất hạnh nhưng tài năng, thương người… Họ đại diện cho tầng lớp nhân dân thấp cổ bé họng, sống trong lầm than, khổ cực nhưng vẫn giữ tâm hồn trong sáng, lương thiện, đức tính chăm chỉ, cần cù vốn có.

Truyện cổ tích thần kì xây dựng thành công một thế giới trong mơ ước. Thông qua những câu chuyện ấy một ánh sáng lí tưởng của nhân dân được nêu lên về một xã hội công bằng, dân chủ. Trong đó, người lương thiện, tốt bụng, tài năng sẽ được hưởng hạnh phúc xứng đáng với những phẫm chất tốt đẹp của họ. Một cô Tấm thảo hiền trở thành hoàng hậu; một chàng Thạch Sanh trở thành phò mã… Tất cả đều là những ước mơ, những giấc mơ giản dị mà đẹp đẽ thể hiện cho khát vọng của con người trong cuộc sống. Họ mong muốn những người ở hiền sẽ được gặp lành, còn những kẻ độc ác, xấu xa sẽ bị trừng trị thích đáng. Mơ ước và con người sống trong mơ ước ấy không ngừng đấu tranh để đạt được mơ ước, để biến mơ ước ấy thành hiện thực. Họ mơ ước trong hiện thực và mơ ước về hiện thực, không phải những điều tốt đẹp ở cõi tiên hay một nơi nào khác mà ngay chính giữa cuộc đời họ. Nó vẫn là thế giới ở trần gian, tồn tại, biến động với tất cả sự phong phú, đa dạng, phức tạp của nó. Chỉ có điều, thế giới ấy được hoàn thiện hóa, lí tưởng hóa lên mà thôi.

Trong xã hội loài người, xã hội mà con người đã, đang và sẽ sống luôn luôn tồn tại biết bao nhiêu sự phức tạp, đa dạng thẫm chí cả những mâu thuẫn hết sức gay gắt nóng bỏng. Bên cạnh những điều tốt đẹp, tươi sáng vẫn còn không ít những cái xấu xa, đen tối nhởn nhơ giữa cuộc đời, đặc biệt trong xã hội phong kiến- hoàn cảnh ra đời chủ yếu của truyện cổ tích. Mà con người ngay từ khi xuất hiện đã không ngừng vươn tới chân, thiện, mĩ. Do đó, người ta không thể chấp nhận những điều xấu xa, giả dối kia. Người ta phải xây dựng nên trong khát vọng và trí tưởng tượng của mình một thế giới khác tươi đẹp hơn. Đó cũng là một hình thức phủ nhận hiện thực đen tối. Khi ước mơ không thể thực hiện thì qua những câu chuyện cổ tích ánh sáng kì ảo, chói ngời hạnh phúc vào cuộc đời tối tăm, bất hạnh của con người, khiến họ yêu đời và sống mạnh mẽ hơn. Trong thế giới truyện cổ tích, người hiền sẽ gặp lành, kẻ ác bị trừng trị; sự công bằng được thực hiện, lao động được nhẹ nhàng, tuổi già và cái chết bị đẩy xa; người dị dạng, xấu xí trở nên đẹp đẽ; người mất vợ hoặc người yêu được đoàn tụ; người nghèo sẽ giàu có, người bị áp bức, đau khổ sẽ có địa vị và quyền thế cao sang…

Có thể nói, truyện cổ tích thần kì là sự phản ánh mơ ước của nhân dân về một thế giới tốt đẹp hơn trong tương lai bằng những hư cấu kì ảo. Họ không khoanh tay đứng nhìn để cho mơ ước của mình mãi mãi là điều không tưởng. Chính vì mơ ước là cái không có thực trong hiện tại nên sự phản ánh mơ ước phải là những hư cấu kì ảo do trí tưởng tượng của con người tạo ra. Do đó, nói: “Cổ tích thần kì là những hư cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước” có nghĩa là: truyện cổ tích thần kì là sự phản ánh mơ ước của nhân dân ta về một thế giới tốt đẹp hơn trong tương lai bằng những hư cấu kì ảo. Đồng thời nó cũng phản ánh quyết tâm của người lao động, là đấu tranh cho mơ ước ấy thành hiện thực…

Trong truyện “Tấm Cám” có một bức tranh cuộc sống với những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội. Truyện kể “mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi”, lời kể ấy đã xác định thân phận mồ côi của Tấm. Trong bao nỗi đau buồn của một đứa trẻ, có lẽ đau khổ, thiệt thòi nhất là thiếu mẹ. Tục ngữ có câu: “Cha chết ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá đầu chợ” để khái quát nỗi đau khổ, thiệt thòi vô cùng của đứa con mồ côi mẹ. Mồ côi cha đã khổ, mồ côi mẹ lại càng thiệt thòi, đau khổ hơn nhiều.

Mọi đau khổ của Tấm đều bắt nguồn từ quan hệ với mẹ con dì ghẻ. Tấm cô đơn chỉ biết khóc mỗi khi bị hành hạ. Bị Cám lừa trút mất giỏ tép, mất hi vọng cái yếm đào, Tấm khóc. Bị lừa đi chăn trâu đồng xa để ở nhà mẹ con Cám làm thịt chú bống bé nhỏ bầu bạn với Tấm, cô lại khóc. Lần thứ ba Tấm khóc là khi cô không được đi hội làng. Tấm lại khóc và dường như tiếng khóc lại một lần nữa đẩy nỗi đau của cô lên cao hơn. Tiếng khóc hay tiếng lòng, hay nỗi uất hận đã đè nén thành hình, thành khối để rồi bật ra nơi từng tiếng khóc nghẹn ngào, ấm ức.

Thân phận đầy đau khổ của cô Tấm trong truyện cổ là thân phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương thiện trong xã hội. Mâu thuẫn giữa Tâm với mẹ con dì ghẻ không chỉ là mâu thuẫn là mâu thuẫn dì ghẻ- con chồng mà còn là hình thức biểu hiện cụ thể của xung đột Thiện- Ác trong cuộc đời. Tấm đại diện cho nhân vật thiện chămm chỉ, lương thiện, đôn hậu. Cái ác hiện hình trong mẹ con mụ dì ghẻ qua hành động: lừa gạt lấy mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ nhỏ bé của Tấm là cái yếm đào; lén lút giết chết con bôngd là giết chết người bạn nhỏ bé của Tấm; đang tâm trộn thóc với gạo nhằm dập tắt niềm vui được đi hội làng, được giao cảm với đời của cô… Tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi lần bị chèn ép, áp bức có sức lay động mọi trái tim nhân hậu, gọi dậy niềm cảm thông chia sẻ với mọi người.

Sống giữa vũng lầy của cuộc đời, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” Tấm- đại diện cho người nông dân vẫn vươn lên tỏa ngát như những bông sen mảnh mai mà bền bỉ sức sống. Tước vùi dập của cái ác Tấm hay chính là nhân dân vẫn đấu tranh vì hạnh phúc đến cùng.  Tấm tuy đã trở thành hoàng hậu nhưng vẫn bị cái ác tiêu diệt, săn đuổi. Cô Tám lương thiện, hiếu thảo trèo cau hái quả cúng hca đã bị mẹ con Cám chặt cây giết chết. Cô Tấm hiền lành, ngây th vừa ngã xuống một cô gái mạnh mẽ và quyết liệt hơn sống dậy, hóa thân trở về với cuộc đời, công khai chống lại cái ác đòi hạnh phúc. Cuộc chiến đấu đó thật gian nan, quyết liệt nhưng cũng thật hấp dẫn đối với độc giả. Bởi trong cuộc đời, những gì người mồ côi, nhỏ nhoi, yếu thế không làm được thì Tấm đã thay họ thự hiện “oán thì trả oán, ân thì trả ân” đến tận cùng.

Tấm thảo hiền thì dì ghẻ chặt cây sát hại mà không cam chịu chết. Cô hóa vàng an, bay vào cung vua báo hiệu sự có mặt của mình trong lời nhắc nhỏ: “Giặt áo chồng tao phơi lao, phơi sào/ Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao”, vàng anh bị giết chết Tấm hóa cây xoan đào tuyên chiến với kẻ thù trực tiếp và dữ dội hơn: “Lây tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”, khug cửi bị đốt cháy. Từ đống tro tàn chết chóc, Tấm hóa cây thị trở lại với đời. Trong sự hóa thân ấy có sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm. Phải chăng trong nhân vật Tấm đã hội tụ sự dịu dàng và tính cách bất khuất của người pụ nữ Việt Nam xa xưa.

Tấm đã hóa thân, cái thiện không chịu chết một cách oan ức trong im lặng đã vùng dậy còn cái ác cũng tìm mọi cách tiêu diệt cái thiện. Những lần chết đi sống lại của tấm phản ánh cuộc đấu tranh quyết liệt, gay gắt của cuộc chiến đấu giữ cái thiện với cái ác; đồng thời cũng thể hiện sức sống mãnh liệt, không thể bị triệt tiêu của cái thiện.

Chim vàng anh, cây xoan đào, quả thị là những nơi Tấm gửi gắm linh hồn, cũng là những vật bình dị, thân thương trong cuộc sống dân dã. Nếu như lần đầu câu chuyện, mỗi lần Tấm khóc Bụt thường hiện lên ban tặng vật thần kì, thì phần sau cuộc đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn nhưng Tấm không còn khóc, cũng không còn thấy sự xuất hiện của Bụt, chỉ thấy tấm hành động liên tiếp để chống lại kẻ thù. Cũng chính nhân dân lao động, những người có thân phận như Tấm, những người thấu hiểu và cảm thương cô Tấm thiệt thòi, đã gửi vào cô Tấm ý thức mãnh liệt giành và giữ hạnh phúc của mình. Đằng sau câu chuyện đã ẩn chứa một chân lí: Hạnh phúc chỉ có bền chặt khi ta biết dành và giữ lấy. Vì vậy, nếu lúc đầu mỗi lần Tấm uất ức chỉ biết ngồi khóc, còn bụt làm thay tất cả thì đến đây chim vàng anh, khug cửi, quả thị không thay tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi hóa thân, tạm ẩn mình để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn.

Nhưng sau nhiều lần chết đi sống lại của Tấm, trong lốt chim, cây, quả… Tấm hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn chừng nào cái ác còn tồn tại, chừng nào mẹ con Cám còn hiển diện. Cô lừa cám để sai người đào hố, dội nước sôi tự tìm đến cái chết. Kết thúc đó nêu lên một triết lí dân gian “ác giả ác bào”, phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt tận gốc kẻ thù. Cuối cùng hạnh phúc đã trở về với Tấm như món quà tặng quý giá cho lòng thủy chung và sự dũng cảm của cô.

Sự hóa thân nhiều lần rồi trở về cuộc đời của tấm là biểu hiện sinh động của quan niệm về công bằng xã hội và hạnh phúc. Người lương thiện phải được hạnh phúc, còn kẻ ác nhất định bị trừng phạt, đó là quy luật của lòng nhân đạo, tình yêu thương con người. Người lao động không chờ đợi hạnh phúc và mơ hồ ở cõi nào khác mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự ngay trên mảnh đất mình từng gắn bó ở nơi trần thế.

Truyện cổ tích thần kì thường giải quyết mâu thuẫn theo hướng: Thiện thắng Ác và người lương thiện nhất định sẽ được hưởnh hạnh phúc. Con đường dẫn đến hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu hướng giả quyết mâu thuẫn rất đặc trưng của truyện cổ tích. Để giải quyết mâu thuẫn đó, truyện cổ tích thường dử dụng yếu tố kì ảo.

Trong truyện “Tấm Cám” các yểu tố kì ảo được đưa vào sử dụng với “mật độ” dày đặc. Đó là những thế lực siêu nhiên như ông Bụt. Bụt thường xuất hiện đúng lúc mỗi khi tấm khóc, an ủi, nâng đỡ cô mỗi khi Tấm gặp khó khăn hay đau khổ. Tấm mất yếm đào- Bụt cho cá bống, Tấm mất cá bống- Bụt cho hi vọng đổi đời. Tấm không được đi hội- Bụt cho đàn chim sẻ đến giúp. Bụt cho tấm có ngựa, có quần áo mới… đưa Tấm đến hội, gặp nhà vua, được làm hoàng hậu và đạt đến đỉnh cao hạnh phúc. Cùng với Bụt, con gà cũng là yếu tố kì ảo, biết cảm thông với Tấm, chim sẻ cũng giúp Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, trợ giúp Tấm trên đường tới hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, cô đơn trong xã hội xưa. Những hình ảnh chim vàng anh, khung cửi, quả thị… cũng đều là những yếu tố kì ảo, là vật hóa thân của tấm hỗ trợ cô trên con đường tìm đến hạnh phúc. Mỗi lần hóa thân sức sống ấy lại càng trỗi dậy mãnh liệt hơn, tràn trề hơn khiến cho cuộc chiến giữa Thiện và Ác càng cam go, quyết liệt.

Những đau khổ của người mồ côi là có thật và phổ biến, còn hạnh phúc mà họ được hưởng rất hiếm hoi, phần lớn chỉ là mơ ước. Để phản ánh mơ ước về hạnh phúc thông qua nhân vật mồ côi, truyện cổ tích đã “chữa lại” số phận không may mắn cho họ thông qua những yếu tố thần kì. Điều đó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hi vọng ở tương lai công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.

Con người muốn hoàn thiện mình, xã hội muốn tiến lên thì phải luôn luôn mơ ước đến những điều tốt đẹp hơn và không ngừng đấu tranh để đạt đến điều mơ ước ấy. “Là những hư cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước”, truyện cổ tích thần kì và văn học dân gian nói rộng ra đúng là kho báu tinh thần của dân tộc, rất đáng để chúng ta trân trọng và học hỏi.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Bàn về văn học dân gian, M. Gorki viết: “Rất cần nêu lên rằng trong sáng tác dân gian hoàn toàn không có bóng dáng của chủ nghĩa bi quan, mặc dầu những người sáng tác sống trong nhọc nhằn cực khổ… Tập thể dường như vẫn ý thức về tính bất diệt của mình và tin rằng mình sẽ chiến thắng tất cả những lực lượng thù địch". Hãy giải thích và dùng cổ tích đế chứng minh nhận định trên.   

4. Củng cố

- Khái niệm, đặc trưng của truyện cổ tích.

5. Dặn dò

- Học bài cũ. Làm bài tập về nhà.

- Chuẩn bị bài : “Tấm Cám”.

Ngày soạn :28/10/2017

Tiết 47-48.

TẤM CÁM

(Truyện cổ tích)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc-hiểu một truyện cổ tích thần kì, nhận biết truyện cổ tích thần kì qua đặc trưng thể loại. Biết phân tích, cảm nhận nhân vật trong truyện cổ tích.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Có được tình yêu đối với người lao động, củng cố niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện, của chính nghĩa trong cuộc sống. Biết yêu lẽ phải, công bằng, biết đấu tranh để bảo vệ cái thiện, chính nghĩa, biết lên án diệt trừ cái ác, cái xấu.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra phần bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

NGHỆ THUẬT

l. Vai trò và ý nghĩa của yếu tố kì ảo trong diễn biến truyện

Trong quá trình chuyển biến của thái độ, sự phản kháng của Tấm đối với hành vi tàn ác của mẹ con Cám, cũng là quá trình đấu tranh của cái thiện với cái ác, yếu tố kì ảo có một vai trò quan trọng, thể hiện khát vọng, ước mơ, quan niệm của nhân dân. Nếu như ở phần đầu của truyện, mỗi lần Tấm gặp khó khăn, Bụt đều hiện lên để ban tặng cho những vật thần kì, thì đến phần sau câu chuyện, ta không còn thấy Tấm khóc, cũng không thấy Bụt hiện ra nữa, mặc dù càng về sau thì sự nguy khó, gian nan mà Tấm gặp phải càng cao. 

 Tính chất của yếu tố kì ảo ở phần sau không giống như ở phần đầu truyện, dù nó vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc quyết định sô' phận, quá trình hóa thân của Tấm, nhưng rõ ràng là tác giả dân gian đã gửi gắm vào nhân vật Tấm ý thức chủ động trong việc giành và giữ gìn hạnh phúc cho mình: Chim vàng anh, xoan đào, quả thị, rồi Tấm trở về và trừng trị mẹ con Cám. ơ giai đoạn này, cái thiện đã trực diện đấu tranh, quyết giành lấy sự sống trước cái ác.

Yếu tố thần kì được biểu hiện phong phú, đậm nét trong truyện Tấm Cám. Ở đây nhân vật thần kì là ông Bụt hiền hậu, nhân tự, là cá bống, gà, chim sẻ luôn có mặt đúng lúc để giúp tấm lúc khó khăn; là nhân vật nhiệm màu như đôi hài, xương cá chôn trong lọ dưới chân giường biến thành quần áo đẹp, ngựa hồng,..; là sự biến ảo của Tấm từ kiếp này sang kiếp khác. Yếu tố thần kì trong truyện cổ tích có nét khác hẳn với yếu tố thần kì trong  thần thoại. thần thoại là sáng tác nghệ thuật “không tự giác” nên yếu tố thần kì trong thần thoại là biểu hiện của tín ngưỡng nguyên thủy, là cái mà người xưa tin còn yếu tố thần kì của truyện cổ tích là phương tiện nghệ thuật được sử dụng một cách có ý thức để nhân dân thực hiện ước mơ đổi thay số phận cho những nhân vật bất hạnh. Đồng thời yếu tố thần kì tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn tuyệt vời của truyện cổ tích, đặc biệt đối với trẻ em. Không gian làng quê gần gũi, bình dị kết hợp với không gian kì ảo tạo thành thế giới cổ tích hết sức đặc trưng trong truyện cổ tích mà truyện Tấm Cám  là một ví dụ tiêu biểu.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật trong truyện cổ tích mang tính khái quát cao, biểu trưng cho một loại người trong xã hội chứ không mang tính cá biệt. vú dụ: Tấm biểu trưng cho cái thiện, mẹ con Cám biểu trưng cho cái ác. Tất cả những điều đó không phải qua thuyết minh của ngôn ngữ người kể chuyện, cũng không qua việc miêu tả tâm lí và ngoại hình nhân vật (truyện cổ tích không chú trọng miêu tả tâm lí và ngoại hình nhân vật) mà tính cách nhân vật phải biểu hiện qua hành động. Nhân vật truyện cổ tích là nhân vật  chức năng, vừa là nhân vật hành động vừa là công cụ để nhân dân thực hiện ước mơ công lí “ở hiền gặp lành” ác giả ác báo”.
- Cốt truyện đa tình tiết, phát triển hợp lí. Kết cấu hai phần sáng rõ, góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề. ví dụ: Phần đầu Tấm luôn bị động, mỗi lần bị mẹ con dì ghẻ ức hiếp chỉ biết ôm mặt khóc, phần sau từ khi bị giết, Tấm đã liên tục chủ động đấu tranh. So với một số dị bản kiểu truyện người con riêng ở một số nước sẽ thấy rõ tính chất phong phú về tính tiết, tính dân tộc và tính quốc tế của truyện Tấm Cám.
- Yếu tố thần kì được sử dụng đậm nét, nhân vật thần kì, vật nhiệm màu, sự biến ảo tạo sức hấp dẫn đặc biệt về nội dung và nghệ thuật của truyện cổ tích thần kì Tấm Cám.
- Chất cổ tích đậm nét qua lối kể chuyện mang tính phiếm chỉ về thời gian không gian nhân vật.
- Những câu vần vè đan xen trong truyện như trong truyện như lời hát gọi cá bống, tiếng cụ ta cục tác con gà, tiếng hót của chim vàng anh, tiếng kêu của khung cửi là biện pháp nghệ thuật có hiệu quả, khắc sâu ấn tượng cho người nghe và tăng chất thơ cho tác phẩm tự sự dân gian.

2.    Xu hướng phát triển của hai tuyến nhân vật

-    Mẹ con Cám: càng ngày càng tỏ ra độc ác hơn, tàn nhẫn hơn.

-    Nhân vật Tấm: Từ những hành động và phản ứng yếu ớt, cô đã trở nên quyết liệt và chủ động hơn để đòi lại hạnh phúc đích thực của mình.

3.    Đặc điểm của loại truyện cổ tích thần kì thể hiện qua truyện Tấm Cám

Truyện Tấm Cám thể hiện rõ đặc điểm của thể loại truyện cổ tích thần kì. Đó là sự xuất hiện của yếu tố kì ảo và vai trò của nó đối với diễn biến, kết thúc câu chuyện. Có thể liệt kê ra các yếu tố kì ảo trong truyện Tấm Cám: Bụt, con gà con biết nói tiếng người, đàn chim sẻ, sự hóa thân của Tấm thành chim vàng anh, xoan đào, quả thị rồi trở lại làm người, con quạ biết nói.

Về kết cấu, truyện có dạng nhân vật chính phải trải qua nhiều hoạn nạn cuối cùng mới được hưởng hạnh phúc. Đây là một trong những kiểu kết cấu khá phổ biến của loại truyện cổ tích thần kì.

Truyện phản ánh những xung đột trong xã hội thời kì đã có sự phân chia giai cấp.

Kết thúc truyện có hậu mang tính nhân đạo và lạc quan.

 

NỘI DUNG

1. Bố cục của truyện Tấm Cám
Truyện Tấm Cám có hai phần ứng với hai đoạn đời của nhân vật Tấm, cũng là hai giai đọan của cuộc đấu tranh giữa tấm và mẹ con Cám mang ý nghĩa biểu trưng cho thiện và ác.
Phần 1: Về thân phận của Tấm – cô gái mồ côi ngây thơ, hiền dịu phải chịu bao nỗi bất công, đọa đày của mẹ con người dì ghẻ.
Phần 2: Cuộc đấu tranh quyết liệt của Tấm để giành lại sự sống và hạnh phúc.
a) Tấm – người con riêng bất hạnh phải chịu bao nỗi bất công, đọa đày của mẹ con người dì ghẻ.
+ Truyện kể về mâu thuẫn xảy ra tỏng gia đình phụ quyền thời cổ. Tấm đại diện cho loại nhân vật mồ côi (Tấm là cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ) chăm chỉ, hiền lành. Mẹ con người dì ghẻ là hiện thân của cái ác. Tấm chịu sự bất công ngay dưới mái nhà của mình, làm quần quật cả ngày không hết việc, còn Cám được mẹ nuông chiều.
+ Chi tiết cái yếm đỏ: Vốn chăm chỉ lại được người dì ghẻ treo giải thưởng cái yếm đỏ, Tấm bắt được đầy giỏ bị cám lừa Tấm ngồi bưng mặt khóc hu hu Bụt hiện lên giúp Tấm.
+ Chi tiết con cá Bống: Nếu như cái yếm đỏ vật trang sức có giá trị nhỏ bé bình dị, mà cũng là niềm mơ ước không thành của cô gái mồ côi thì con cá bống, con vật hiền lành, người bạn mới, nơi nương tựa tình cảm duy nhất của Tấm cũng bị kẻ ác rình mò giết hại. hình tượng cục máu nổi lên mặt nước nói về nỗi oan khuất, nỗi hận thù Tấm òa khóc, bụt lại hiện lên.
+ Người dì ghẻ ghen ghét và độc ác không muốn cho tấm đi trẩy hội, trộn thóc với gạo bắt tấm nhặt – tấm ngồi khóc một mình – bụt lại hiện lên cho đàn chim sẻ giúp Tấm.
Tấm không có quần áo đẹp đi hội, Bụt bảo đào bốn lọ đựng xương cá bống ở chôn ở giường lên. Xương cá bống biến thành quần áo đẹp và ngựa, giày.
Tấm qua chỗ lội, rơi một chiếc giày xuống nước Tấm thử giày và được làm hoàng hậu. Ở đây ta thấy mô típ “vật báu đem lại hạnh phúc cho nhân vật thiện” Khép lại phần I của câu chuyện
b)Tấm đấu tranh giành lại sự sống và hạnh phúc.
+ Kết cấu của truyện Tấm Cám ở Việt Nam và một số chuyện cổ tích ở các dân tộc ở đông Nam Á cơ bản có nhiều điểm giống nhau, nhưng cũng có một số nét khác so với cốt truyện Cô lọ lem ở châu Âu. Nếu như truyện Cô Lọ Lem của Pháp và một số nước châu Âu kết thúc khi Lọ Lem được kết hôn với hoàng tử nhờ đôi hài xinh xắn (Tương đồng giữa các cốt kể này ở nhân vật người con riêng với hai mô típ chính : Mô típ mâu thuẫn dì ghẻ, con chồng và mô típ vật báu đem lại hạnh phúc), thì phần sau của kết cấu truyện Tấm Cám của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á có đặc điểm khác giúp cho việc thể hiện nét độc đáo trong chủ đề tác phẩm. Mẹ con người dì ghẻ trong truyện cổ tích châu Âu chỉ thể hiện sự ghen ghét, xấu ca của mình ở những hành động tranh công, lừa dối chứ chưa đến mức tiêu diệt sự sống của người con riêng như trong truyện Tấm Cám.Cho nên khi Lọ Lem được đổi thay số phận, trở thành hoàng hậu thì mẹ con người dì ghẻ xấu hổ. hoảng sợ mà trốn biệt, không còn ai gặp lại nữa.Trong truyện Tấm Cám , mẹ con người dì ghẻ không chỉ ghen tị, độc ác thông thường mà còn tiến sâu đến tột cùng tội ác là giết hại Tấm hết lần này đến lần khác. Tấm tuy đã là hoàng hậu nhưng vẫn là một cô gái hiếu thảo, trèo lên cây hái cau để giỗ cha. Người dì ghẻ chặt cây ca, tấm ngã xuống ao chết đuối – Cái ác đã hủy diệt cái thiện. Mâu thuẫn đã trở lên một mất một còn. GS. Đinh Gia Khánh đã có nhận xét thật chí lí và sâu sắc:” Thật kì lạ khi thể xác của cô Tấm bị giết hại thì ý thức của cô thức tỉnh. Dường như có một cô Tấm khác sống dậy không phải để bưng mặt khóc, để bị lừa dối mà tỉnh táo nhận diện, vạch mặt kẻ thù, để tìm lại hạnh phúc đã mất và tự tay trả thù”. Hay: “mỗi lần bị quật ngã là một lần cô Tấm đứng phắt dậy. Mỗi lần bị giết là một lần cô sống lại không phải là để chịu khổ mà như thuyết luân hồi quan niệm là để đấu tranh […] Cái đẹp nổi bật nhất của cô là tinh thần đấu tranh kiên cường […] Cô gái ngây thơ đó khi cần thì đã biết căm thù, cô gái hiền dịu đó khi cần thì đã biết đấu tranh.
Khi khai thác truyện Tấm Cám, cần chú ý đến những lời vần vè mà nhân dân thích thú khi vạch mặt Cám: “Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Hay:

Cót ca có két
Lấy tranh chồng chị
Chị khoét mắt ra.

Nếu ở kết cấu phần trước, mỗi khi bị lừa dối, bị khổ đau, cô Tấm hiền lành thụ động chỉ biết bưng mặt khóc, mỗi lần ấy lại có Bụt (yếu tố thần kì) xuất hiện đúng lúc giúp cô thì ở phần sau, cô Tấm chủ động, kiên cường biến hóa từ kiếp này sang kiếp khác, đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù. Ở đây quan niệm luân hồi của đạo Phật (Thuyết luân hội của đạo phật cho rằng luân hồi là vòng quay của bánh xe, con người ta sống là gửi, thác là về, cuộc sống lăn theo vòng quay từ kiếp này sang kiếp khác) chỉ là cái vỏ hình thức để cho nhân dân thể hiện triết lí dân gian khỏe khoắn, lành mạnh của mình. truyện Tấm Cám thể hiện thái độ của nhân dân bênh vực người bất hạnh và là bài ca cổ vũ tinh thần đấu tranh giành lại hạnh phúc và trừng phạt cái ác.

2.    Ý nghĩa của xung đột truyện

Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ phản ánh mối xung đột giữa cái thiện với cái ác trong xã hội. Xung đột này thường được truyện cổ tích giải quyết theo hưởng cái thiện chiến thắng cái ác, dù trải qua gian nan, nguy khó, cuối cùng kẻ “ở hiền” tất sẽ “gặp lành”, được hưởng hạnh phúc.

3.    Ý nghĩa của diễn biến truyện

Từ mở đầu kết thúc truyện, thái độ của Tấm đối với hành vi tàn ác của mẹ con Cám chuyển biến theo hướng sự phản kháng mỗi lúc một cao thêm; đồng thời với cuộc đấu tranh và giữ hạnh phúc của Tấm trước mẹ con dì ghẻ ngày càng gian nan, quyết liệt hơn. Từ một cô Tấm hiền lành, chăm chỉ, lương thiện luôn luôn bị ức hiếp, bắt nạt, chỉ biết khóc trong oan ức, tủi cực đến một hoàng hậu bị cái ác hãm hại, giết chết, hóa thành vàng anh, thành cây xoan đào, trở thành khung cửi và bị đốt thành tro, đến khi hóa thân vào trái thị rồi trở lại là cô Tấm... Quá trình chết đi sống lại ấy cho thấy tính chất gian khó của cuộc đấu tranh của cái thiện với cái ác, đồng thời cho thấy sức sống mãnh liệt, không thể bị tiêu diệt của cái thiện.

4. Quan niệm của tác giả dân gian

a)    Qua sự việc Tấm trở về với cuộc đời: Sự trở về với cuộc đời của Tấm ở cuối truyện nói lên quan niệm của nhân dân ngày xưa về hạnh phúc với triết lí “ở hiền gặp lành”. Trong ước mơ về công lí, công bằng xã hội ấy, cái thiện, người lương thiện dược phần thắng, được hưởng hạnh phúc, kết cục tốt đẹp; còn cái ác phải trả giá, đúng như triết lí “ác giả ác báo”, “gieo gió gặt bão” mà nhân dân đã đúc kết.

b)    Qua số phận của nhân vật Tấm, tác giả dân gian đã gửi gắm nhiều ước mơ, khát vọng. Đó là ước mơ công bằng xã hội, cái thiện chiến thắng, cái ác thì trả giá (như đã phân tích ở trên); ước mơ về hạnh phúc gia đình (Tấm làm vợ vua, sự trở về của Tấm bên vua..); ước mơ đổi đời (Tấm trở thành hoàng hậu); ước mơ tình nghĩa (Tấm và bà cụ hàng nước; chim vàng anh, xoan đào và vua)...

c)    Sự xuất hiện miếng trầu têm cánh phượng trong truyện gợi cho chúng ta nhiều ý nghĩa. Miếng trầu gắn với phong tục hôn nhân, với sự kết giao, hẹn ước, với tình nghĩa thủy chung... mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Có thể thấy hình ảnh miếng trầu và tục ăn trầu trong truyện Sự tích trầu cau hoặc ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ví dụ:

-    Miếng trầu ăn ngọt như đường Đã ăn lấy của, phải thương lấy người.

-    Miếng trầu là đầu câu chuyện.

-    Miếng trầu nên dâu nhà người.

CHỦ ĐỀ

Tập trung thể hiện sự chuyển biến của hình tượng nhân vật Tấm từ yếu đuối, thụ động đến kiên quyết đấu tranh giành lại sự sống và hạnh phúc cho mình, truyện Tấm Cám phản ánh sâu sắc cuộc đấu tranh giữa cái thiện với cái ác và ước mơ công lí, công bằng, cùng tinh thần lạc quan, nhân đạo thể hiện triết lí “ở hiền gặp lành” của nhân dân.

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Đọc và trả lời những câu hỏi sau:

Dịu dàng là thế Tấm ơi

Mà sao em phải thiệt thòi, vì sao?

Phận nghèo hôm sớm dãi dầu

Hoá bao nhiêu kiếp, ngọt ngào, đa đoan.

người ngoan ở với người gian

Dẫu hiền như Bụt cũng tan nát lòng

Tin em, em cướp mất chồng

Đành làm quả thị thơm cùng nước non…

(trích Lời của Tấm- Ánh Tuyết)

  1. Những chi tiết nào nói về “phận nghèo” “thiệt thòi” của nhân vật Tấm trong truyện Tấm cám?
  2. Trong truyện Tấm Cám, Tấm đã “hoá bao nhiêu kiếp”? Đó là những kiếp nào?
  3. Sự hoá kiếp của Tấm, sự xuất hiện của nhân vật ông Bụt cho thấy truyện Tấm Cám thuộc loại nào?
  4. Liệt kê nhân vật “người ngoan” và “người gian” trong truyện Tấm Cám
  5. Giá trị tư tưởng của truyện cổ tích Tấm Cám là…

(Viết không quá 5 câu để cụ thể hoá tư tưởng ấy)

Gợi ý :

1. – Bố mất sớm, phải ở với dì ghẻ và Cám- Làm lụng từ sáng đến tối không hết việc

– Bị mẹ con cám áp bức

2. Tấm hoá 4 kiếp: Vàng anh, Xoan đào, Khung cửi, Quả thị

3. Tấm Cám thuộc truyện cổ tích thần kỳ

4. – Người ngoan: Tấm

– Người gian: Dì ghẻ và Cám

5. – Thể hiện ước mơ cháy bỏng của nhân dân về sự chiến thắng tất yếu của cái thiện trước cái ác, về hạnh phúc gia đình, về lẽ công bằng trong xã hội, về năng lực phẩm chất tuyệt vời của con người.

– Nêu những tấm gương đạo đức nhằm giáo dục con người, đặc biệt là trẻ em: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, gieo gió gặp bão

Đề 2:

Hãy tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám bằng những cách khác nhau.

Sau đây là ba văn bản tóm tắt truyện cổ tích tấm cám:

1.   Tấm là một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ côi mẹ, sống với dì ghẻ và cô em cùng bố khác mẹ tên là Cám. Tấm bị mẹ con Cám ghen ghét, ngược đãi. Đi hớt tép, Tấm bị Cám đánh lừa trút hết giỏ tép. Tấm nuôi con cá bống, mẹ con Cám giết chết con cá bống. Ngày hội, dì ghẻ trộn gạo lẫn thóc, bắt Tấm ở nhà nhặt xong mới được di xem. Mỗi lần bị mẹ con Cám gây chuyện ngược đãi, đau khổ như vậy, Tấm đều được bụt hiện lên an ủi, giúp đỡ. Bụt bảo Tấm nuôi cá bống cho có bạn, bụt sai chim sẻ nhặt giúp Tấm mớ gạo trộn lẫn thóc. Bụt chỉ cho Tấm cách chôn xương cá bống để đến ngày hội tấm có quần áo, khăn, giày đẹp. Tấm đi xem hội, đến chỗ lội, đánh rơi một chiếc giày xuống nước. Nhờ chiếc giày bị rơi ấy, Tấm được vua biết đến và lấy làm vợ. Mẹ con Cám lập mưu giết chết Tấm rồi đưa cám vào thế chân tấm. Tấm chết hóa thành chim vàng anh. Chim vàng anh bị Cám giết chết lại hóa thành cây xoan đào. Cám chặt cây xoan đào, đóng khung cửi, khi ngồi vào dệt vải, con ác bằng gỗ trên khung cửi kêu: "cót ca cót két, mày tranh chồng chị, chị khoét mắt ra". Cám đốt khung cửi, đồ tro ở một nơi xa cung vua. Từ đống tro mọc lên một cây thị lớn, chỉ có một quả thật to. Một bà cụ bán hàng nước được quả thị ấy, mang về để ở nhà. Mỗi khi bà cụ vắng nhà, từ quả thị, một cô gái - tức Tấm chui ra quét dọn, nấu ăn giúp bà cụ. Một hôm, vua đến uống nước, ăn trầu ở hàng bà cụ, thấy có miếng trầu do tấm têm, đã nhận ra vợ. Tấm trở lại cuộc sống hạnh phúc bên vua. Còn mẹ con Cám thì bị trừng phạt thích đáng.

2.   Tấm là một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ côi mẹ, sống với dì ghẻ và một cô em cùng bố khác mẹ tên là Cám. Tấm bị mẹ con Cám ghen ghét, ngược đãi. Mỗi lần Tấm bị ngược đãi, bụt lại hiện lên an ủi và giúp đỡ. Trong một ngày hội, nhà vua gặp Tấm và lấy làm vợ. Mẹ con Cám giết tấm để đưa cám vào làm vợ vua. Tấm nhiều lần hóa thân: thành chim vàng anh, thành cây xoan đào, thành khung cửi, thành cây thị, nhưng đều bị mẹ con Cám tìm cách hãm hại. Cuối cùng, tấm gặp lại vua và hai người sống hạnh phúc bên nhau. Còn mẹ con Cám bị trừng phạt thích đáng.

Đề 3: 

Tóm tắt truyện “Tấm Cám” theo nhân vật Tấm. 

Gợi ý :
Tôi mồ côi cha từ nhỏ và phải sống với gì ghẻ và cô em gian ác. Trong mọi việc, tôi luôn là người phải chịu thiệt thòi. Đi bắt tôm bắt tép, tôi bị Cám lừa trút hết giỏ tép đầy. Tôi nuôi được con cá bống, mẹ con Cám lại lừa giết thịt ăn. Ngày nhà vua mở hội, mụ gì ghẻ lại lấy gạo và thóc trộn lẫn với nhau bắt tôi nhặt xong mới được đi xem. Trong tất cả những lần như thế tôi đều được bụt hiện lên an ủi và giúp đỡ. Nhờ có Bụt, ngày hội tôi có quần áo đẹp, khăn đẹp và giày đẹp. Đi xem hội, tôi sơ ý đánh rơi mất chiếc giầy nhưng cũng may nhờ chiếc giày ấy, tôi trở thành hoàng hậu. Ghen ghét, mẹ con Cám lập mưu giết tôi rồi đưa Cám vào cung để thế chân. Tôi chết, biến hóa nhiều lần thành: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửa. Mỗi lần như thế lại là một lần tôi bị mẹ con Cám lập mưu hãm hại. Cuối cùng tôi biến thành quả thị, âm thầm giúp việc nấu cơm, quét dọn cho bà hàng nước. Nhưng rồi bà cụ cũng phát hiện ra. Bà xé tan quả thị và thế là từ đấy tôi sống cùng bà. Một hôm nọ vua đến quán này uống nước, ăn miếng trầu cánh phượng, vua thấy quen và thế là vua nhận ra người vợ yêu quý của mình. Tôi thẳng tay trừng trị mẹ con nhà Cám rồi trở lại sống hạnh phúc bên vua.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Hình ảnh nhân vật Tấm (truyện cổ tích “Tấm Cám”) trong quá trình đấu tranh giành hạnh phúc. Bài học mà tác giả dân gian muốn gửi tới người đọc qua truyện “Tấm Cám” ?

4. Củng cố:

- Mâu thuẫn, xung đột trong truyện cổ tích “Tấm Cám”. Quan niệm của nhân dân về lẽ công bằng, sự chiến thắng của cái thiện, chính nghĩa.

5. Dặn dò

- Học bài cũ.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn :30/10/2017

Tiết 49-50.

TẤM CÁM

(Truyện cổ tích)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc-hiểu một truyện cổ tích thần kì, nhận biết truyện cổ tích thần kì qua đặc trưng thể loại. Biết phân tích, cảm nhận nhân vật trong truyện cổ tích.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Có được tình yêu đối với người lao động, củng cố niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện, của chính nghĩa trong cuộc sống. Biết yêu lẽ phải, công bằng, biết đấu tranh để bảo vệ cái thiện, chính nghĩa, biết lên án diệt trừ cái ác, cái xấu.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra phần bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Hình ảnh nhân vật Tấm (truyện cổ tích Tấm Cám) trong quá trình đấu tranh giành hạnh phúc. Bài học mà tác giả dân gian muốn gửi tới người đọc qua truyện Tấm Cám?

 Gợi ý :

* Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám và quá trình đấu tranh giành hạnh phúc của Tấm.

* Quá trình đấu tranh giành hạnh phúc của Tấm

– Cuộc đấu tranh của Tấm để giành và giữ hạnh  phúc

+ Tấm về giỗ cha bị hại chết à cái thiện hiền lành, ngây thơ,cả tin bị hại chết bất ngờ,bị cướp đoạt hạnh phúc.

+ Mẹ con Cám hại chết Tấm đưa Cám vào cung thay chị. Cái ác sẵn sàng và đầy dã tâm, dối trên lừa dưới để tiêu diệt cái thiện, đoạt hạnh phúc của cái thiện.

+ Tấm hóa thành con chim vàng anh nhưng chim vàng anh bị Cám giết;  Tấm lại hóa thành cây xoan đào thì Cám chặt cây xoan đào đóng thành khung cửi; Tấm hiện thân qua tiếng kêu của con ác bằng gỗ trên khung cửi thì Cám đã đốt khung cửi đổ tro ở nơi xa; từ đống tro mọc lên một cây thị lớn, chỉ có một quả, Tấm tái sinh trở về làm vợ vua

Cái thiện kiên trì, bền bỉ đấu tranh để giành và giữ hạnh phúc của mình

Cái ác không từ 1 thủ đoạn nào liên tục hại chết cái thiện để cướp đoạt hạnh phúc

– Ý nghĩa sự hóa thân của Tấm

Biểu hiện quan niệm về lẽ công bằng xã hội và hạnh phúc: người lương thiện phải được hưởng hạnh phúc, kẻ ác bị trừng trị. Người lao động tìm và giữ hạnh phúc ở ngay cõi này trần thế chứ không phải cõi niết bàn xa xôi nào đó.

+ Tác giả dân gian sử dụng mô típ hóa thân để cho thấy cuộc đấu tranh không khoan nhượng để giành hạnh phúc. Chim vàng anh,khung cửi, xoanđào,quả thị không thay T trong cuộcđáu tranh mà chỉ là nơi T tậm thời ẩn mình để trở về đấu tranh quyết liệt hơn à Hạnh phúc không đến ngay, không tự dưng mà có. Hạnh phúc chỉ bền chặt khi ta biết dũng cảm giành và giữ lấy

+ Niềm tin về sức sống mãnh liệt của con người, của cái thiện: con người sẽ không chịu khuất phục, đầu hàng trước cái ác, cái xấu mà sẽ đấu tranh đến cùng để bảo vệ công lí

– Hành động Tấm trả thù mẹ con Cám

+ Tấm là nhân vật chức năng mà qua đó nhân dân ta gửi gắm bài học về công lý. Tấm có bước phát triển mạnh mẽ về tính cách: từ thụ động trở nên mạnh mẽ,chủ  động đoạt lấy hạnh phúc của mình. Tấm không tranh giành mà chỉ giữ lấy những gì thuộc về mình.

Tư tưởng cốt lõi mà dân gian muốn gửi đến người nghe, đọc là : thiện luôn thắng ác, “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”. Với suy nghĩ như thế, dân gian không cho rằng hành động của Tấm là độc ác thậm chí là cần thiết đối với Cám tức là kẻ ác cần bị trừng trị đích đáng.

+ Quan niệm về cái thiện:  hiền trong quan niệm của dân gian là “Đi với Bụt mặc áo cà sa. Đi với ma mặc áo giấy”. Hiền không đồng nghĩa với nhút nhát, sợ hãi, chịu khuất phục trước cái ác, cái xấu.

* Bài học tác giả dân gian gửi gắm qua truyện Tấm Cám

– Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác .

Ý nghĩa xã hội của mâu thuẫn : chiến thắng của cái thiện trước cái ác, cái ác trước sau cũng sẽ phải trả giá đích đáng, “ác giả ác báo”, cái thiện sẽ được tôn vinh “ở hiền gặp lành”.

– Quan niệm của nhân dân về hạnh phúc: Hạnh phúc không tồn tại ở đâu đó xa xôi, trừu tượng mà có ngay ở cõi đời này. Người bình dân xưa không tìm hạnh phúc ở cõi nào khác mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự ngay ở nơi trần thế.

– Ước mơ của nhân dân: Xã hội công bằng, công lý được thực hiện. Tức là người lao động chăm chỉ, hiền lành, tốt bụng sẽ được hưởng hạnh phúc; kẻ tham lam, độc ác, giết người sẽ bị trừng trị thích đáng.

Đề 2.

Sau khi trở thành hoàng hậu, Tấm vẫn bị mẹ con nhà Cám tìm cách tiêu diệt. Bằng những lần hóa thân, cô Tấm đã mạnh mẽ quyết liệt sống dậy trở về với cuộc đời, đòi lại hạnh phúc của mình.

Hãy viết bài văn ngắn( khoảng 400 từ), bình luận về một lần hóa thân của Tấm mà anh/chị ấn tượng nhất.

Gợi ý :

1. Giới thiệu truyện cổ tích “Tấm Cám”:

– Chặng một là mâu thuẫn gia đình

– Chặng hai đã phát triển thành xung đột mất còn mang tính xung đột XH:

+ Mẹ con Cám tìm đủ cách và nhiều lần truy đuổi hòng tiêu diệt bằng được Tấm để độc chiếm ngôi hoàng hậu, để trọn đời vinh hoa phú quý.

+ Sau mỗi lần bị giết, bị chết, bị chặt, bị đốt, Tấm đều không chết, đều tìm cách hoá thân sang kiếp khác, vật khác và tìm cách tố cáo tội cướp chồng giết chị của Cám.

  1. Chọn một trong số lần hóa thân của Tấm (hóa thành chim vàng anh; hóa thành cây xoan đào(khung cửi); hóa thành cây thị (quả thị) và nêu suy nghĩ của bản thân về sự việc đó:

– Bình về giá trị thẩm mĩ mà hóa thân đó gợi ra: Cô Tấm bản tính hiền lành, lương thiện nên những hóa thân cũng gần gũi, đời thường (Chọn hóa thân nào thì bình hóa thân ấy)

+ Chim vàng anh bé bỏng, hiền lành

+ Cây xoan đào tỏa bóng mát trong vườn,

+ Quả thị nhỏ xinh,thơm ngát như tấm lòng cô Tấm

– Bình về giá trị giáo dục qua hóa thân của Tấm:

+ Mỗi hóa thân là một lần Tấm chết đi sống lại,  phản ánh tính chất gay gắt, quyết liệt của cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác.

+ Hóa thân của cô Tấm thể hiện sức sống mãnh liệt không thể bị hủy diệt của cái thiện.

+ Hóa thân của Tấm khẳng định chân lí: Không thể có hạnh phúc trọn vẹn nếu cái ác còn tồn tại

+ Hóa thân của Tấm phản ánh ước mơ công bằng xã hội, ước mơ về hạnh phúc của người lao động: người lương thiện không thể bị chết oan, kẻ ác nhất định phải bị trừng phạt.

+ Hóa thân của Tấm gửi gắm quan niệm người lao động về hạnh phúc: Hạnh phúc ở ngay trong cuộc sống đời thường.

– Những hóa thân – những vật Tấm gửi linh hồn đều là những vật bình dị, thân thương của cuộc sống dân dã. Đây là những hình ảnh giàu tính thẩm mĩ, tạo nên thế giới cổ tích gần gũi mà có giá trị giáo dục to lớn cho con người.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Lập dàn ý cho đề bài sau :

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp hình tượng nhân vật Tấm.

4. Củng cố:

- Mâu thuẫn, xung đột trong truyện cổ tích “Tấm Cám”. Quan niệm của nhân dân về lẽ công bằng, sự chiến thắng của cái thiện, chính nghĩa.

5. Dặn dò

- Học bài cũ.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 01/11/2017

Tiết 51-52.

TẤM CÁM

(Truyện cổ tích)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc-hiểu một truyện cổ tích thần kì, nhận biết truyện cổ tích thần kì qua đặc trưng thể loại. Biết phân tích, cảm nhận nhân vật trong truyện cổ tích.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Có được tình yêu đối với người lao động, củng cố niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện, của chính nghĩa trong cuộc sống. Biết yêu lẽ phải, công bằng, biết đấu tranh để bảo vệ cái thiện, chính nghĩa, biết lên án diệt trừ cái ác, cái xấu.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra phần bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp hình tượng nhân vật Tấm.

Gợi ý :

I. Mở bài

- Giới thiệu Tấm Cám - truyện cổ tích thần kì tiêu biểu của dân tộc.

- Hình tượng Tấm có sự phát triển về tính cách.

II. Thân bài

1. Tổng

- Nguồn gốc của truyện gắn với thời lù xã hội đã nảy sinh những xung đột, mâu thuẫn. Vai trò của yếu tố thần kì góp phần phản ánh ước mơ công bằng của nhân dân.

- Triết lí nhân sinh từ câu chuyện toát lên từ hình tượng trung tâm: cô Tấm xinh đẹp, thảo hiền trong cuộc đấu tranh chống lại cái ác, giành lại hạnh phúc.

2. Phân

a. Tính cách Tấm khi ở với mẹ con Cám.

- Hiền lành.

- Nhẫn nhục đáng thương.

- Khi gặp hoạn nạn chỉ biết tủi thân ôm mặt khóc. Chỉ có Bụt an ủi giúp đỡ Tấm.

b. Tấm thành hoàng hậu và âm mưu của mẹ con Cám.

- Tấm thành hoàng hậu do bản chất tốt đẹp của nàng.

- Sự ganh ghét đó kị đã trở thành tội ác ghê tởm của mẹ con Cám. Sự ngây thơ, lòng hiếu thảo của Tấm đã phải trả giá bằng cái chết. Nàng trở thành nạn nhân của một âm mưu thấp hèn.

- Mỗi lần bị hại, Tấm càng trở nên mạnh mẽ hơn. Sự hóa thân thần kì của nhân vật là tình cảm của dân gian bênh vực và bảo vệ cho vẻ đẹp không bị hủy diệt. Nàng chủ động bảo vệ hạnh phúc của mình.

c. Sự trở về của Tấm

- Lần hóa thân cuối cùng của Tấm vào quả thị thể hiện được bản tính của người con gái thơm thảo. Tấm sống cùng bà lão nghèo, được gần gũi chia sẻ với nhân dân.

- Miếng trầu là hình ảnh sống động về người con gái thảo hiền nết na, cũng là dấu hiệu để vua nhận ra nàng, đón nàng về cung.

- Sự trừng phạt là tất yếu với mẹ con Cám để diệt trừ tận gốc cái ác, bộc lộ rõ ràng thái độ của dân gian. Bọn chúng phải trả giá tương xứng với tội ác chúng đã gây ra cho Tấm.

3. Hợp

- Sự phát triển tính cách của Tấm thể hiện triết lí dân gian sâu sắc về eon người. Quan niệm ở hiền gặp lành không phải thụ động chờ hưởng phúc mà phải đấu tranh để đạt tới.

- Vẻ đẹp của nhân vật thêm phần hấp dẫn nhờ yếu tố thần ki, đồng thời khẳng định tinh thần không chịu khuất phục trước cái xấu, cái ác.

III. Kết bài

Cảm nhận của bản thân về vẻ đẹp hình tượng Tấm.

Đề 2.

Phân tích hai chặng đời đấu tranh của nhân vật cô Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám”.

Dàn ý :

I. Mở bài.

Tấm Cám là truyện cổ tích thuộc kiểu truyện về người mồ côi, có mang yếu tố thần kì. Truyện phản ánh số phận của cô gái mồ côi bất hạnh cùng mơ ước đổi đời và công lí xã hội của người lao động.

Số phận của nhân vật trung tâm là cô Tấm gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại cái ác qua hai chặng đời đấu tranh: người con mồ côi bị ức hiếp và sau khi trở thành vợ vua.

II. Thân bài.

A. Chặng đời thứ nhất.

1. Cô Tấm mồ côi vốn hiền lành, chăm chỉ, luôn luôn bị mẹ con Cám chà đạp.
Đầu tiên là việc đi bắt tép để được thưởng cái yếm đỏ, Tấm bị Cám lừa trút hết tôm tép vào giỏ Cám.

–  Nhịn bát cơm để nuôi cá bống trong giếng cũng bị mẹ con Cám bắt ăn thịt. Khi được tin nhà vua mở hội, Tấm lại bị mẹ ghẻ hành hạ bằng cách bắt nhặt thóc gạo trộn lẫn.

2. Mỗi lần bị hà hiếp, Tấm chỉ biết khóc: Tấm bưng mặt khóc nức nở, (…) bưng mặt khóc òa, (…) tủi thân òa lên khóc, (…) tủi thân muốn khóc. Những tiếng khóc trên chứng tỏ Tấm ý thức được nỗi khổ của mình. Đó là thái độ phản kháng mang tính thụ động, chịu đựng, mềm yếu.

B. Chặng đời thứ hai.

1. Tấm trở thành hoàng hậu nhưng vẫn bị cái ác tiêu diệt, cô Tấm hiền lành, lương thiện vừa bị giết chết, một cô Tấm mạnh mẽ và quyết liệt sống dậy, trở về với cuộc đời để đòi hạnh phúc.

– Tấm hóa vàng anh, báo hiệu sự có mặt của mình thì bị giết chết. Tấm hóa cây xoan đào (khung cửi), tuyên chiến với kẻ thù thì bị đốt cháy. Tấm hóa cây thị (quả thị) trở về với đời… Cái thiện không chịu chết một cách oan ức trong im lặng đã vùng dậy, còn cái ác cũng tìm mọi cách tiêu diệt cái thiện. Những lần chết đi sống lại của Tấm phản ánh tính chất gay gắt, quyết liệt của cuộc chiến đấu giữa cái thiện với cái ác, đồng thời thể hiện sức sống mãnh liệt, không thế bị tiêu diệt của cái thiện.

– Chim vàng anh, cây xoan đào (khung cửi), cây thị (quả thị) là những vật cô Tấm gửi gắm linh hồn, cũng là những vật bình dị thân thương trong cuộc sống dân dã. Đó là những hình ảnh đẹp, tạo ấn tượng thẩm mĩ cho câu chuyện.

2. Sau bao lần hóa thân chiến đấu chống kẻ thù. Tấm trở lại với cuộc đời. Dường như Tấm hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn nếu cái ác còn tồn tại. Cô lừa Cám để tự nó sai người đào hố, giội nước sôi, tự kết thúc đời mình. Cuối cùng Tấm đã giành lại và hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Kết thúc đó nêu triết lí dân gian, “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt kẻ thù.

Tóm lại, cuộc chiến đấu của Tấm với mẹ con dì ghẻ thật gian nan, quyết liệt nhưng cuối cùng Tấm đã chiến thắng. Đó là chiến thắng tất yếu của cái thiện, của lòng nhân đạo và tinh thần lạc quan theo quan niệm của nhân dân.

3. Mấy lần hóa thân của Tấm trong chặng đời này cũng có sự trợ giúp của yếu tố kì ảo. Nếu ở phần một của truyện, Bụt hiện lên ban tặng vật thần kì mỗi lần Tấm khóc, thì ở phần hai, cuộc đấu tranh quyết liệt hơn nhưng ta không còn thấy Tấm khóc, cũng hoàn toàn không thấy sự xuất hiện của Bụt. Nhân dân gợi vào nhân vật Tấm ý thức phải tự mình giành và giữ hạnh phúc. Khác với phần một, yếu tố kì ảo (chim vàng anh, xoan đào, quả thị) không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi Tấm hóa thân để lại đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn.

– Sau bao đau khổ, chết đi sống lại nhiều lần, cuối cùng Tấm đã trở về với cuộc đời, hương hạnh phúc có thực và dài lâu trên trần thế. Kết thúc dó cho thấy quan niệm về hạnh phúc của nhân dân xưa. Điều này thể hiện lòng yêu đời và gắn bó với cuộc sống của nhân dân lao động xưa.

III. Kết bài.

Cô Tấm nghèo hèn, bị bắt nạt, bị giết, cuối cùng đã gặp lại chồng, trở về làm hoàng hậu bên những người dân hiền lành tử tế. Kết thúc đó cũng mang mơ ước đổi đời của những người lao động nghèo. Đó là bức tranh về một xã hội lí tưởng có “vua sáng, tôi hiền” . Trong xã hội mơ ước đó, họ không phải là loại người bần cùng mà ở địa vị tối cao.

Những mơ ước trên biểu hiện tâm hồn lãng mạn, tinh thần lạc quan yêu đời và niềm khát khao vươn tới cái đẹp, cái thánh thiện của nhân dân lao động.

BÀI VĂN MẪU


Đã là người Việt Nam, trong thời thơ ấu của mình có mấy ai không từng được nghe kể chuyện Tấm Cám và hình ảnh cô Tấm mồ côi ao ước chiếc yếm đào, ngồi khóc bên giếng vì mất bống, bị hắt hủi tội nghiệp đã làm lay động bao trái tim nhân hậu. Kiểu truyện Người mồ côi rất quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam và nước ngoài, trong đó Tấm Cám là kiểu truyện phổ biến. Ở Pháp có truyện Lọ Lem, Đức có Cò Tro Bếp, Trung Quốc có Nàng Diệp Hạn, Thái Lan có Con cá vàng, Mianma có Truyện con rùa, Cam-pu-chia có Nẽang-Cantóc... Nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có những truyện tương tự Tấm Cám: Tua Gia Tua Nhi (Tày), Ý Ưởi Ý Noọng (Thái), Gầu Nà - Gầu Rềnh (Mông), Đôi giày vàng (Chăm), ứ và Cao (Hơ-rê), Gơ liu- Gơ lát (Xơ-rê)... khác với những truyện tương tự Tấm Cám ở phương Tây, thường kể về cô gái mồ côi bất hạnh, chăm chỉ hiền lành được vào hoàng cung, lấy chồng hoàng tử và kết thúc ở đó. Truyện Tấm Cám còn có phần thứ hai, phản ánh cuộc đấu tranh gian nan và quyết liệt đế giành và giữ hạnh phúc của Tấm. Cả hai phần của truvện đều thể hiện mơ ước thiện thắng ác và mơ ước về hạnh phúc của nhân dân lao động Việt Nam xưa. Thân phận và con đường đến với hạnh phúc của cô gái mồ côi.

     Truyện kể mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi, lời kể đã xác định thân phận mồ côi của Tấm. Trong bao nỗi đau buồn của một đứa trẻ, có lẽ đau khổ thiệt thòi nhất là thiếu mẹ. Tục ngữ có câu “Cha chết ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá đầu chạ” để khái quát nỗi đau khổ, thiệt thòi vô cùng của đứa con mồ côi mẹ. Mồ côi cha đã khổ, mồ côi mẹ còn thiệt thòi, đau khổ hơn nhiều. Mọi đau khổ của Tấm đều bắt nguồn từ quan hệ với mẹ con người dì ghẻ. Tấm cô đơn chỉ biết khóc mỗi khi bị hành hạ. bị Cám lừa trút mất giỏ tép, mất hi vọng có cái yếm đào, Tấm khóc. Cái yếm đào chỉ là một món quà bé nhỏ, nhưng với cô Tấm nghèo khó, mồ côi, đang ở tuổi trăng tròn, lại chẳng bao giờ được nhận một món quà nào thì nó thật đáng quý. Vì vậy, dường như Tấm không chỉ khóc vì bị mất yếm đào mà còn vì chút hi vọng được nhận yêu thương cũng tan biến mất. Bị lừa đi chăn trâu đồng xa để ở nhà mẹ con Cám làm thịt chú bống bé nhỏ bầu bạn với Tấm, Tấm lại khóc. Chú bống nhỏ bé, được cô nhường nhịn, chăm chút yêu thương trong bát cơm hẩm san sẻ cho bống và câu gọi thiết tha “'Bổng bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”. Với cô gái mồ côi không được nhận sự chăm sóc nào như Tấm thì chăm chút cho bống là một nhu cầu tình cảm, nhu cầu được chăm chút và sẻ chia. Vì vậy, việc giết bống đâu phải để thỏa mãn sự tham ăn của mẹ con Cám mà là để hành hạ Tấm, phá đi chỗ dựa tình cảm của cô gái đơn côi. Cục máu bầm nổi trên mặt giếng như bằng chứng không lời về sự tàn bạo, độc ác của hành động giết bống. Lần thứ ba Tấm khóc là khi cô không được đi hội làng. Dì ghẻ trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt. Đến đây, sự hành hạ chẳng cần phải che đậy như những lần trước. Hội làng là ngày vui nhất trong năm. Mọi người từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo đều được đi hội và chia sẻ niềm vui chung, thế mà riêng Tấm bị bắt ở nhà, cô càng lẻ loi hơn. Tấm lại khóc và dường như tiếng khóc lại một lần nữa đẩy nỗi đau khổ của cô lên cao hơn.

       Thân phận đầy đau khổ của cô Tấm trong truyện cổ là thân phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương thiện trong xã hội xưa. Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ không chỉ là mâu thuẫn dì ghẻ - con chồng mà còn là biểu hiện cụ thể của xung đột thiện - ác trong cuộc đời. Tấm đại diện cho nhân vật thiện chăm chỉ, lương thiện, đôn hậu (bắt được đầy giỏ tép, đi chăn trâu đồng xa, nhịn cơm dành nuôi bông...). Cái ác hiện hình trong mẹ con mụ dì ghẻ qua hành động: lừa gạt lấy mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ bé nhỏ của Tấm là cái yếm đào, lén lút giết chết con bống là giết chết người bạn bé nhỏ của Tấm, trắng trợn trộn thóc với gạo nhằm dập tắt niềm vui được đi hội làng, được giao cảm với đời của cô, ... Tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi lần bị chèn ép, áp bức có sức lay động mọi trái tim nhân hậu, gợi dậy niềm cảm thông, chia sẻ của mọi người.

       Cái thiện càng bị o ép, áp bức, cái ác càng lộng hành, tác oai tác quái thì mâu thuẫn thiện - ác thể hiện càng sâu sắc, không thể dung hòa, tạo nên không khí căng thẳng buộc phải thay đổi.

      Truyện cổ tích thần kì thường giải quyết mâu thuẫn ấy theo hướng: dù lâu hay mau, dù gian nan khó khăn đến thế nào, song thiện nhất định sẽ thắng ác và người lương thiện nhất định sẽ được nhận hạnh phúc. Con đường đến với hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu hướng giải quyết mâu thuẫn rất đặc trưng của cổ tích. Để giải quyết mâu thuẫn đó, truyện cổ tích thường sử dụng yếu tố kì ảo.

       Truyện Tấm Cám, giải quyết mối xung đột thiện - ác cũng theo hướng thiện thắng ác và nhờ sự giúp sức của nhân vật Bụt. Bụt thường xuất hiện đúng lúc mỗi khi Tấm khóc, an ủi, nâng đỡ cô mỗi khi Tấm gặp khó khăn hay đau khổ. Tấm mất yếm đào - Bụt cho cá bống. Tấm mất bống - Bụt cho hi vọng đổi đời. Tấm không được đi hội - Bụt cho chim sẻ đến giúp Tấm, đưa Tấm đến hội, gặp nhà vua, được làm hoàng hậu và đạt đến đỉnh cao hạnh phúc. Bụt (tên gọi dân gian của Phật) vốn là nhân vật của Phật giáo, đã được dân gian hóa, trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, nhiều quyền năng, xuất hiện đúng lúc để nâng đỡ mơ ước, chữa lại số phận hẩm hiu cho người nghèo. Cùng với Bụt, con gà biết cảm thông với Tâm, chim sẻ biết giúp Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, cũng là yếu tố kì ảo, trợ giúp Tâm trên đường tới hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, cô đơn trong xã hội xưa.

       Những đau khổ của người mồ côi là có thực và phổ biến, còn hanh phúc mà họ được hưởng thường rất hiếm hoi, phần lớn chỉ là mơ ước. Để phản ánh mơ ước về hạnh phúc qua nhân vật mồ côi, truyện cổ tích đã “chữa lại” số phận không may mắn cho họ. Điều đó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hi vọng ở tương lai công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.

      Trong truyện Tấm Cám Việt Nam và những truvện tương tự của nước ngoài, các cô gái mồ côi đến với hạnh phúc nhờ đôi giày, vật báu trực tiếp đem lại may mắn. Nhờ chiếc giày cô gái đánh rơi mà nhà vua hay hoàng tử nhận ra người đẹp và kết hôn với cô. Hình ảnh đôi giày trong văn hóa một số nước có ý nghĩa giao duyên, là vật làm tin các chàng trai cô gái thường trao cho nhau trước hôn lễ. Các chú rể người Đức thường tặng cho vị hôn thê của minh một đôi giày trong lễ đính hôn. Khi cô gái ướm chân vào giày, chàng trai phải tự tay mình đóng nốt những chiếc đinh cuối cùng với hi vọng hôn nhân của họ sẽ bền chặt, ở Trung Quốc, các cô gái dù chưa biết mặt người chồng tương lai của mình là ai vẫn cứ khâu một đôi giày vải hoặc tết một đôi giày rơm làm món quà tặng đầu tiên cho chồng, ở Việt Nam, đôi giày không có ý nghĩa giao duyên, nhưng khi những người phụ nữ bình dân nghe tin loa truyền, ai đi vừa giày sẽ được làm hoàng hậu thì “đàn bà con gái trong đám hội chen nhau đến ướm chân vào giày”. Ướm chân hay chính là được một lần thử vận may của mình! Có ai không mơ ước hạnh phúc và có ai lại bỏ qua cơ hội kiếm tìm hạnh phúc cho mình. Ướm giày, họ hi vọng một may mắn tình cờ nào đó sẽ dẫn mình đến tương lai tôt đẹp. Nhưng truyện cổ tích không bao giờ có ngẫu nhiên cho những người bất kì. Chỉ có người đáng hưởng hạnh phúc nhất mới là người ướm chân vừa giày và nhận món quà may mắn của số phận. Ta hiểu rằng, đằng sau lũy tre làng yên tĩnh luôn ấp ủ bao mơ ước lãng mạn và kì diệu của người nghèo, truyện cổ tích đã tạo hình cho những mơ ước đó và nuôi nó sống động trong những câu chuyện kể.

      Tấm nhờ chăm chỉ, lương thiện mà được Bụt giúp đỡ, từ cô gái mồ côi nghèo trở thành hoàng hậu. Đó là con đường đến với hạnh phúc của các nhân vật thiện như Tấm trong truyện cổ tích châu Âu và thế giới. Điều đó một mặt phản ánh ước mơ thiện thắng ác, mặt khác còn nêu triết lí “ở hiền gặp lành”, một triết lí phổ biến trong truyện cổ tích

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Vai trò của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích “Tấm Cám”.

4. Củng cố:

- Mâu thuẫn, xung đột trong truyện cổ tích “Tấm Cám”. Quan niệm của nhân dân về lẽ công bằng, sự chiến thắng của cái thiện, chính nghĩa.

5. Dặn dò

- Học bài cũ.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 02/11/2017

Tiết 53-54.

TẤM CÁM

(Truyện cổ tích)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc-hiểu một truyện cổ tích thần kì, nhận biết truyện cổ tích thần kì qua đặc trưng thể loại. Biết phân tích, cảm nhận nhân vật trong truyện cổ tích.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Có được tình yêu đối với người lao động, củng cố niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện, của chính nghĩa trong cuộc sống. Biết yêu lẽ phải, công bằng, biết đấu tranh để bảo vệ cái thiện, chính nghĩa, biết lên án diệt trừ cái ác, cái xấu.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra phần bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Vai trò của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích Tấm Cám.

Bài làm :

Như mọi truyện cổ tích khác, Tấm Cám cũng được dựng lên từ nhiều yếu tố li kì. Hãy đi sâu vào khám phá thế giới thần kì của thiên truyện để thấy hết ý nghĩa giá trị to lớn của nó và cũng để giải mã cho sự nghi hoặc đã được đặt ra từ thời thơ bé của ta.

        1. Cổ tích là một loại truyện kể dân gian, là sản phẩm được hun đúc, kết tinh từ trí tưởng tượng của nhân dân. Khi con người bế tắc trước hiện thực cuộc sống thì tìm đến khát vọng ước mơ làm lối thoát và từ đó cổ tích đã ra đời. Được ra đời trong khi xã hội đã xuất hiện giai cấp nên cổ tích chủ yếu phản ánh sự đâu tranh xã hội, phản ánh mâu thuẫn giai cấp mà chủ yếu là mâu thuẫn giữa những kẻ áp bức và người bị áp bức. Như một yếu tố không thể thiếu của truyện cổ tích yếu tố thần kì góp phần vào việc giải quyết những mâu thuẫn ấy.

    2. Quay trở lại với câu truyện Tấm Cám ta thấy yếu tố thần kì đã xuất hiện như một sự tất nhiên không thể thiếu. Đọc cổ tích ta thấy không vắng bóng được hình ảnh của ông bụt, bà tiên đó là lực lượng thần thánh, siêu nhiên mang lại sự huyền bí, lạ kì và thúc đẩy tình tiết truyện phát triển, ông bụt, bà tiên thường hiền từ độ lượng, như người cha, người mẹ, chỉ có điều là họ có khả năng vô tận, có thể đem đến mọi điều may mắn mà người cha, người mẹ bình thường không phải bao giờ cũng đem đến cho con cái được. Và ông bụt trong Tấm Cám đã xuất hiện giữa cuộc đời khổ cực, bị mẹ ghẻ đày đọa, cô Tấm được cho quần áo đẹp đi dự hội, cho cô được lấy hoàng tử đế không còn sống cuộc sống cực khổ nữa. Những phép màu mà ông bụt ban cho Tấm trong truyện chúng ta cần chú ý đến đôi giày thần kì. Đôi giày nhỏ nhắn, xinh xắn kì diệu ấy đã trở thành vật giao duvên bởi nhờ nó mà cô thiếu nữ xinh đẹp kia mới biết và lấy được vua. Đôi giày đã là cái mối hôn nhân. Cái duyên của đôi lứa, đã mang lại hạnh phúc và giải thoát cho cuộc đời khổ cực của Tấm. Nếu không có đôi giày mang phép màu thần kì của ông bụt chắc Tấm sẽ mãi mãi là cô gái chỉ biết quẩn quanh làm công cụ lao dộng cho mụ dì ghẻ ác độc kia. Sự xuất hiện của yếu tố thần kì này góp phần thể hiện ước mơ khát vọng của nhân dân ta. Đó là khát vọng được thoát khỏi cuộc sống khổ cực, bị áp bức bóc lột, mơ ước có được cuộc sống hạnh phúc no ấm và bình đẳng. Như vậy, yếu tố thần kì này có vai trò nói lên khát vọng của con người trước hiện thực bế tắc không lối thoát. Trước hiện thực ấy không biết làm gì chỉ còn biết gửi gắm những nỗi niềm vào ước mơ, khát vọng.

     3.Chưa dừng lại ở đó, câu chuyện còn được tiếp tục phát triển bằng các yếu tố tình tiết kì lạ nữa. Cô Tấm khi Cám hãm hại chết đi, nhưng kì lạ thay đã biến thành chú chim vàng anh xinh đẹp, rồi cây xoan đào, khung cửi dệt vải và cuối cùng là quả thị. Bôn lần hóa thân này, tác giả dân gian không đơn thuần nói lên sự luân hồi của con người, của cuộc đời như thuyết duy tâm của tôn giáo. Mà điều quan trọng ở đây tác giả dân gian muốn nói lên đó là sự phản kháng vươn lên quyết liệt của Tấm. Không chịu khuâ't phục trước cái ác, cái xâ'u, cái bất công, Tấm đã vươn lên bằng mọi giá và cuối cùng đã chiến thắng, mặc dù sự chiến thắng này có được là nhờ sự trợ giúp của các yếu tố thần kì. Sự phản kháng này của Tấm chính là cuộc đấu tranh giai cấp giữa người bị áp bức và kẻ áp bức. Vậy một lần nữa yếu tố thần kì lại góp phần thể hiện khát vọng ước mơ chiến thắng cái ác, cái xâu, áp bức bất công của nhân dân lao động. Nhờ vậy mà đưa đến kết thúc có hậu cho câu truyện, điều này phù hợp với tâm lí truyền thống nhân đạo xưa nay của dân tộc ta.

     4. Như vậy yếu tố kì diệu siêu nhiên chính là thủ pháp nghệ thuật gắn với nội dung lãng mạn của truyện. Tác giả dân gian cũng như thính giả dân gian để cho trí tưởng tượng bay bổng theo những sự kiện kì diệu trong truyện không phải vì thực tâm tin - ít ra thì cũng không hoàn toàn tin - rằng những sự kiện đó là có thực nhưng chủ yếu là vì những sự kiện đó cần thiết cho việc giải quyết những vấn đề mà thực tế cuộc sông trong xã hội cũ chưa cho phép giải quyết hoàn toàn như ý muôn như ước vọng của nhân dân. Yếu tô' thần kì trong cổ tích xét cho kĩ không phải chủ yếu là sản phẩm của đầu óc mê tín mà là phương diện cần thiết cho tác giả dân gian có thể đưa sự phát triển tình tiết theo ý muốn của mình. Nhờ vậy mà Tấm Cám đã thể hiện được tất cả những gì mà tác giả dân gian gửi gắm. Đó là khát vọng ước mơ, là quan niệm triết lí về cuộc sống, cuộc đời với quy luật nhân quả từ nghìn đời nay của cha ông.

     Nếu thiếu đi những yếu tố thần kì thì những câu truyện cổ tích sẽ ra sao? Có lẽ nó sẽ trở thành một mảnh đất khô cằn mà cây đời không thể bám rễ vào hút những dòng tươi mát như bây giờ. Và khi nghe truyện cổ tích mà không tin theo, rung cảm theo những sự việc kì diệu, không thể cho trí tưởng tượng và tình cảm của mình bay bổng theo sự việc, nhất là sự việc hoang đường ở trong truyện thì không thưởng thức được hết ý nghĩa của truyện.

Đề 2: Phân tích Tấm Cám để là rõ các đặc trưng của truyện cổ tích thần kì.

BÀI LÀM


Tấm Cám là một trong những truyện cổ tích thần kì tiêu biểu nhất trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Nói tiêu biểu nhất vì từ câu chuyện này, chúng ta có thể nhận thấy rất rõ những đặc trưng nổi bật của loại truyện cổ tích thần kì.

So với cổ tích loài vật và cổ tích sinh hoạt, cổ tích thần kì là loại truyện mang những đặc trưng nổi bật của thể loại: Phản ánh mơ ước, nguyện vọng, lí tưởng xã hội của nhân dân thông qua chiến thắng tất yếu của cái thiện, cái đẹp; yếu tố kì ảo tham gia như một phần không thể thiếu trong cốt truyện, làm cho truyện hấp dẫn và kết thúc truyện thường có hậu, mang lại sự vui vẻ, lạc quan, thoả mãn ước mơ của nhân dân.

Ngày bé thơ, mỗi chúng ta chắc hẳn đều được bà, được mẹ kể cho nghe rất nhiều truyện cổ tích. Có thể câu chuyện đó chúng ta đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần, thậm chí đã thuộc lòng những lời kế đó những không ai không tỏ ra thích thú, say sưa mỗi lần được nghe lại. Tôi nghĩ rằng sức hấp dẫn trong mỗi cậu chuyện chính là sự xuất hiện của lực lượng thần kì (yểu tố kì ảo) - đặc trưng nổi bật của truyện cổ tích. Có đứa trẻ nào mà không háo hức, hồi hộp khi trong truyện hiện diện những ông Bụt, bà tiên, mụ phù thuỷ, con yêu tinh, những con vật, đồ vật thần kì, những phép màu biến hoá?

1. Theo PGS.TS Nguyễn Bích Hà, lực lượng thần kì hay còn gọi là yếu tố thẩn kì, trợ thủ thần kì là kết quả của những hư cấu dưới ánh sáng cuả trí tưởng tượng kì ảo và bay bổng của nhân dân. Có thể chia lực lượng thân kì thành ba loại: nhân vật, đồ vật - vật thể và sinh vật. Tấm Cám là câu chuyện trong đó xuất hiện rất nhiều yếu tố thẩn kì như ông Bụt (nhân vật), bộ áo mớ ba, Cái yếm lụa điều, cái xống lụa, khăn nhiều, đôi giày, chiếc yên cương, khung cửi (đồ vật - vật thể), cá bống, đàn chim sẻ, con ngựa, chim vàng anh, cây xoan đào, cây thị, quả thị (sinh vật). Trong đó, có lực lượng tự bản thân nó đã chứa đựng sức mạnh siêu nhiên, nhưng cũng có lực lượng thể hiện năng lực thẩn kì của mình thông qua sự biện hoá kì ảo. Và tất nhiên, các yếu tố thẩn kì, các phép biến hoá đó không xuất hiện trong truyện một cách ngẫu nhiên, hoặc chỉ để gia tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện một cách đơn thuần. Chúng còn đảm nhận, các chức năng nhất định, đóng góp vai trò nhất định đối với quá trình phát triển của cốt truyện cũng như góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện.

Đọc Tấm Cám ta thấy, ở chặng đầu tiên của truyện, nhân vật Tấm luôn phải chịu sự chèn ép, áp bức của mẹ con Cám. Mỗi lẩn bị chúng ức hiếp, Tâm chỉ biết khóc. Và lần nào Tấm khóc, Bụt cũng xuất hiện để động viên, giúp đỡ nàng. Tấm bị Cám lừa trút hết tôm tép vào giỏ của mình, Bụt hiện lên chỉ cho Tấm thật trong giỏ còn một con bống và dặn Tấm mang về nhà nuôi. Bống bị giết, Tâm khóc, Bụt chỉ cho Tấm nhặt xương bống chôn bỏ vào lọ, chôn vào bốn chân giường. Tấm không được di xem hội, phải ở nhà nhặt thóc gạo bị trộn lẩn, Bụt sai đàn và ngựa để đi xem hội. Sự xuất hiện của Bụt luôn kịp thời, giải thoát cho Tấm khỏi những trắc trở, bế tắc trong cuộc sống. Không có Bụt, liệu răng Tấm có thể vượt qua bao oan nghiệt do mẹ con Cám gieo lên cuộc đời nàng?

2. Bên cạnh sự xuất hiện của nhân vật thần kì ông Bụt, truyện còn có rất nhiều sự biến hóa thần kì. Ban đầu là xương bống bỏ trong lọ đem chôn ở bốn chân giường hoá thành trang phục đẹp, ngựa đẹp và yên cương đẹp. Có thể hiểu đây là món quà mà bụt ban cho Tấm để nàng có thể đến dự hội do nhà vua mở và có cơ hội trở thành hoàng hậu. Lần theo câu chuyện, chúng ta tiệp tục được chứng kiến năm lần hoá thân kì diệu của Tấm. Ngày giỗ cha, Tấm vê nhà, bị dì ghẻ lừa trè lên xé buồng cau giỗ bố. Ở dưới gốc, dì ghẻ chặt cau. Tấm Chết hóa thành vàng anh. Vàng anh bị mẹ con Cám bắt ăn thịt, vứt lông ra vườn. Lông chim vàng anh hoá thành hải xoan đào. Xoan đào bị mẹ con Cám chặt lấy gỗ làm khung cửi. Rồi khung cửi bị mẹ con Cám đốt, đổ tro ra lề đường xa hoàng cung. Từ đống tro mọc lên cây thị chỉ ra một quả. Từ quả thị, Tấm hiện ra, xinh đẹp hơn trước. Nếu không phải trong cổ tích, và nếu không phải trong một câu chuyện thấm đẫm tư tưởng Phật giáo như Tấm Cám, chúng ta sẽ chẳng bao giờ được chứng kiến những lần hoá thân kì diệu như vậy. Năm lần hoá thân của Tấm là năm lần tác giả dân gian vạch trần, tố cáo tội ác dã man của mẹ con Cám. Nhưng hơn nữa, những lần hoá thân này thể hiện sức sống, lòng ham sống mãnh liệt và tinh thần đấu tranh quyết liệt của Tấm. Càng bị đày doa Tấm càng kiên cường hơn gấp bội.

Trong năm lần hoá thân này, nhân vât thần kì (Bụt) không hề xuất hiện. Như vậy, có thể khẳng định, sự biến hóa ở đây có vai trò nâng đỡ nhân vật Tấm tự thân đấu tranh để giành lại sự sống của chính mình. Và nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy rằng Tấm luôn lựa chọn hóa thân vào những nhân vật tươi đẹp, có ích cho cuộc sống. Chim vàng anh là loài chim có tiếng hót rất hay, cây xoan đào cành lá xum xuê, khung cửi dệt vải và cây thị thì cho quả thơm. Điều đó cho thấy dù hóa thân vào sinh thể nào, Tấm cũng luôn cố gắng lương thiện có ích.

3. Những yếu tố kì ảo xuất hiện trong truyện trước hết mang lại màu sắc thần kì cho câu chuyện. Sức hấp dân của Tấm Cám nói riêng và của bản hết các chuyện cổ tích đều nằm trong chính các yếu tố này. Tất nhiên, các yếu tố thần kì xuất hiện trong truyện không chỉ để mang lại cho mỗi câu chuyện sức lôi cuốn mãnh liệt mà còn là một phương tiện nghệ thuật phản ảnh ước mơ,nguyện vọng của nhân dân lao động. Đây cũng chính là nét đặc trưng thứ hai của truyện cổ tích.

Tác giả của văn dân gian nói chung và của truyện cổ tích nói riêng là những người dân lao động. Cuộc sống của họ vốn rất lam lũ, khốn khổ. Trong xã hội phong kiến xưa, hưởng xuyên phải chịu dựng những áp bức, bất công những chèn ép vô lí tù phía giai cấp thống trị. Từ những mâu thuẫn trong phạm vi gia đình (dì ghẻ - con chồng, mẹ chồng - nàng dâu…) đến những mâu thuẫn trong phạm vi xã hội (giàu – nghèo, thiện – ác), tất cả điều rất khó điều hòa. Những con người ở phe chính nghĩa chỉ còn biết sáng tạo nên những câu chuyện, những lời ca, điệu hát…và gửi gắm vào đó ước mơ cháy bỏng về lẽ công bằng, về sự chiến thắng trước những điều vô nghĩa. Trong Tấm Cám mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám trước hết là mâu thuẫn trong phạm vị gia đình, giữa dì ghẻ với con chồng. Nhưng suy rộng ra, đó còn là một mâu thuẫn xã hội, giữa cái Thiện và cái Ác. Cuộc chiến giữa cái Thiện và cái Ác là cuộc chiến không cân sức. Ban đầu, cái Thiện luôn chiếm yếu thế, luôn đơn độc. Do đó tác giả dân gian luôn viện đến lực lượng thần kì để cứu nguy cho cái Thiện, trừng trị cái Ác.

Tấm là nhân vật đại diện cho phe chính nghĩa, cho cái Thiện nên Tâm xứng đáng được sống hạnh phúc. Tấm chịu thương chịu khó, ngoan hiền, hiếu thảo lại xinh đẹp nên luôn được Bụt hiện lên giúp đỡ, nên xứng đáng được làm hoàng hậu. Ngôi vị hoàng hậu vừa là giấc mơ, vừa là phẩn thưởng mà nhân dân lao động đã trao cho Tấm. Năm lần Tấm bị hãm hại cũng là năm lân Tấm liên tục đầu tranh, kiên quyết vạch trần tội ác của mẹ con Cám, kiên quyết đòi lại sự sống của mình. Sáng tạo những chỉ tiết biến hoá thần kì này, nhân dân ta muốn gửi gắm ước mơ một cuộc sống công bằng, hạnh phúc. Chiến thắng của Tấm trước những thủ đoạn tàn ác của mẹ con Cám thực chất là chiến thắng của cái Thiện của lẽ công bằng trước cái Ác, trước sự bất công trong xã hội. Đó chính là ước mơ, là nguyện vọng muôn đời của nhân dân đã gửi gắm trong truyện tích Tấm Cám.

4. Một trong những lí do khiến con trẻ luôn yêu thích còn bởi kết thúc mỗi câu chuyện rất có hậu. Kết thúc truyện Thạch Sanh, Thạch Sanh được lấy công chúa, mẹ con Lí Thông bị sét đánh, biến thành bọ hung. Kết thúc Cây khế, người anh tham lam bị rơi xuống biển Đông còn người em giàu lòng vị tha được sống sung sướng, hạnh phúc cùng vợ con và vui vầy cùng bà con hàng xóm. Kết thúc có hậu là nét đặc trưng thứ ba của truyện cổ tích. Tất nhiên, Tấm Cám cũng có kết thúc như thế. Tấm được trở lại làm người và xinh đẹp hơn trước gấp bội phần. Quan trọng hơn, Tấm được đoàn tụ với nhà vua -  người chống yêu dấu của mình. Sau bao gian khố, đau thương cuối cùng Tấm giành lại được cuộc sống hạnh phúc xứng đáng. Mẹ con Cám luôn làm điều bất nhân hãm hại Tấm nên đã bị trừng trị thích đáng. Cám bị Tấm dội nước sôi cho chết và mụ dì ghẻ thấy vậy cũng lăn đùng ra chết. Cái Ác cuối cùng cũng phải đền tội.

Như vậy, từ truyện cổ tích Tấm Cám. Chúng ta phần nào nhận biết được cách khá rõ nét về các đặc trưng của loại truyện cổ tích thần kì nói riêng và thể loại văn học dân gian - truyện cổ tích nói chung. Từ đây, soi chiếu vào bất cứ câu chuyện cổ tích nào, đặc biệt là cổ tích thần kì, chúng ta cũng dễ dàng thấy những đặc trưng đó. Không có yếu tố này cốt truyện sẽ không phát triển được hoặc phát triển theo cách khác, theo chiều hướng khác và tác phẩm sẽ không còn là một câu chuyện cổ tích. Đồng thời nó sẽ giúp nhân dân lao động thực hiện những giấc mơ đẹp, biến những khát vọng, mơ ước của mình thành hiện thực trong tác phẩm. Yếu tố thần kì chính là nét đặc trưng không thể thiếu của truyện cổ tích thần kì, góp phần quan trọng tạo nên một thế giới cổ tích lấp lánh, mang vẻ đẹp kì diệu và sức hấp dẫn kì lạ đối với con người.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Theo anh/chị, dân gian ta đã gửi gắm ước mơ gì qua sự trở về của nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám”?

4. Củng cố:

- Mâu thuẫn, xung đột trong truyện cổ tích “Tấm Cám”. Quan niệm của nhân dân về lẽ công bằng, sự chiến thắng của cái thiện, chính nghĩa.

5. Dặn dò

- Học bài cũ.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 07/11/2017

Tiết 55-56.

TẤM CÁM

(Truyện cổ tích)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc-hiểu một truyện cổ tích thần kì, nhận biết truyện cổ tích thần kì qua đặc trưng thể loại. Biết phân tích, cảm nhận nhân vật trong truyện cổ tích.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Có được tình yêu đối với người lao động, củng cố niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện, của chính nghĩa trong cuộc sống. Biết yêu lẽ phải, công bằng, biết đấu tranh để bảo vệ cái thiện, chính nghĩa, biết lên án diệt trừ cái ác, cái xấu.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra phần bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Theo anh/chị, dân gian ta đã gửi gắm ước mơ gì qua sự trở về của nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám”?

Bài làm :

Truyện cổ tích là tiếng nói thể hiện ước mơ, khát vọng tốt đẹp của con người về tình yêu, về lẽ phải, về sự công bằng.. Đó cũng chính là điều ta tìm thấy từ trong sự trở về của cô Tấm.

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác me. Tấm là con vợ cả. Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Dì ghẻ là người rất cay nghiệt. Hằng ngày, Tấm phải làm lụng vất vả, hết chăn trâu, gánh nước đến thái khoai, vớt bèo, đêm lại còn xay lúa mà không hết việc. Trong khi đó Cám được mẹ yêu chiều, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng. Ngay từ đầu câu chuyện, tác giả dân gian đã cho chúng ta thấy được phẩm chất cũng như nỗi bất hạnh mà Tấm phải gánh chịu. Tấm khổ ngay từ khi còn bé, cha mẹ đều mất, bị dì ghẻ đối xử bất công, vậy mà nàng vẫn không một lời trách oán. Mẹ con Cám là những kẻ tham lam độc ác. Cám đã từng lừa trút hết tôm cá trong giỏ của chị để về nhà nhận lấy chiếc yếm thắm. Ngày vua mở hội, trong khi mẹ con Cám xúng xính quần áo chuẩn bị dự thi hội thì bà mẹ ghẻ lại đổ một đấu thóc với một đấu gạo để bắt Tấm nhặt riêng cho kì sạch. Tấm nhờ giúp đỡ của Bụt và đàn chim sẻ mà làm xong việc lại có quần áo đẹp để đi chảy hội. Hạnh phúc đã mỉm cười với Tấm khi nhà vua nhặt được đôi hài của nàng đánh rơi xuống chỗ lội và đưa nàng về làm vợ. Nhưng đó cũng chính là lúc mâu thuẫn gay gắt thực sự nảy sinh khi những kẻ xấu xa vì ghen ghét đố kị mà tìm cách hãm hại. Tấm đã phải trải qua một quá trình hóa thân vất vả cuối cùng mới có thể trở về cuộc sống mà mình sứng đáng được hưởng. Qúa trình hóa thân và sự trở về này đã thể hiện một cách tập trung nhất ở ước mơ và khát vọng của dân gian.

Ở lần hóa thân thứ nhất, Tấm bị mẹ ghẻ lừa trèo cau hái quả rồi ở dưới chặt gốc, ngã lộn cổ xuống ao, chết hóa thành chim vàng anh. Chim vàng anh bay vào vườn ngự gặp Cám lúc này được đưa vào cung thay Tấm đang giặt quần áo mà rằng: Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao. Tấm chết đi nhưng lại hóa thân vào chim vàng anh đẹp đẽ, vẫn được vua yêu quý đến quên ăn quên ngủ, suốt ngày mê mải cùng. Cám nghe lời mẹ, bắt trộm chim, ăn thịt, lông chim vứt ngoài vườn mọc thành hai cây xoan đào râm mát như cái lọng che cho nhà vua. Rồi Tấm nhập thân vào khung cửi, hóa thân thành quả thị thơm ngon. Từ quả thị ấy lại bước ra một cô Tấm thảo hiền, còn xinh đẹp hơn trước rất nhiều.

Như vậy, Tấm đã phải trải qua bốn lần hóa thân mới có thể trở về cuộc sống hạnh phúc của mình. Lần hóa thân nào của Tấm cũng gắn với những thứ thật đẹp và bình dị. Sau mỗi lần, Tấm đều trở nên đẹp hơn trước. Sự hóa thân ấy thể hiện niềm tin của nhân dân về sức sống mãnh liệt của Tấm. Đó cũng chính là niềm tin vào sức mạnh của chính nghĩa. Tấm trở về vì nàng tiềm tàng một sức sống và niềm khao khát sống mãnh liệt và còn bởi ước mơ về lẽ công bằng của cha ông ta xưa. Cô Tấm hiền lành và tốt bụng, nàng xứng đáng được hưởng một kết thúc có hậu. Mẹ con Cám bị trừng trị thích đáng cũng như Lí Thông bị sét đánh biến thành con bọ hung. Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, khát vọng ấy không chỉ ở người xưa mà còn là ở mọi thời đại.

Niềm tin và khát vọng còn thể hiện ở sự xuất hiện của các thế lực siêu nhiên, giúp đỡ Tấm, khiến cho nàng đòi lại được lẽ công bằng, tìm được và trở về đúng với thân phận của mình. Cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác sẽ luôn diễn ra ác liệt khó khăn như Tấm phải trải qua biết bao nhiêu lần bị hãm hại mới được trở lại làm người nhưng cuối cùng, cái thiện se luôn giành được phần thắng. Đó là niềm tin, là ước mơ, và cũng là chân lí muôn đời.


Trải qua nhiều lần hóa thân, nhập thân, lần cuối cùng, Tấm ẩn mình trong quả thị và từ quả thị bước ra trở về làm người. Đây là sự trở về cuối cùng thể hiện quan niệm cổ xưa thuộc về tâm linh tin rằng người có thể trở thành vật và vật trở lại làm người cũng giống như truyện Sọ Dừa, Lấy vợ cóc, Người lấy ếch… Cô Tấm từ quả thị bước ra là một chi tiết mang tính thẩm mĩ. Nàng trở về trong vẻ đẹp giản dị, nhưng cũng khiến cho bao người phải say mê và bao nhiêu kẻ phải ghen tị. Dù trải qua biết bao mưa dập gió vùi, những cái đẹp thực sự cũng sẽ mãi tồn tại và được khẳng định.

Những ước mơ chân chính sẽ luôn là đôi cánh nâng con người đến với những cái đẹp hoàn mĩ và thánh thiện. Đó cũng chính là những gì ta tìm được từ trong Tấm Cám…

 Đề 2: 

Từ truyện Tấm Cám, suy nghĩ về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay.
Bài làm 
           Từ xưa đến nay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt với kẻ xấu vô cùng gian nan, phức tạp. Đặc biệt, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong bản thân mỗi con người lại càng phức tạp, gian nan. Xong, kể cả trong xã hội xưa và nay, không phải lúc nào cái thiện cũng chiến thắng cái ác, chính vì vậy mà nhân dân xưa đã đưa những mơ ước, nguyện vọng, lý tưởng xã hội của mình thông qua chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiện vào những truyện cổ tích, tiểu biểu là truyện “Tấm Cám”.

         Từ khi con người hình thành tri thức, cái thiện và cái ác đã luôn cùng song hành với nhau trong xã hội. Cái thiện là tất cả những gì có vai trò tích cực, có tác động thuận lợi trong đời sống của con người và toàn xã hội. Cái ác là tất cả những gì gây trở ngại và có hại cho con người và xã hội. Cái thiện và cái ác là hai mặt đối lập nhau nhưng lại là một chỉnh thể.

         Bản chất mâu thuẫn và xung đột trong câu chuyện “Tấm Cám” tập trung ở hai tuyến: Tấm và mẹ con Cám. Đầu Truyện mâu thuẫn và xung đột đầu tiên được đưa ra là mâu thuẫn và xung đột trong gia đình phụ quyền. Ý nghĩa xã hội được phản ánh rõ nhất qua cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa các lực lượng đối lập trong xã hội, xuất hiện muộn hơn.

         Sớm mồ côi cha mẹ, Tấm sống trong sự ghẻ lạnh của dì ghẻ và Cám. Hằng ngày, Tấm phải làm mọi công việc nhà: “phải làm việc lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa mà không hết việc” chỉ để nhận lấy những trận đòn roi từ bà dì ghẻ. Còn Cám thì “được ăn trắng mặt trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng”. Khác nhau nhưng chưa đến độ mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn giữa Tấm và Cám dần lộ ra khi Cám lừa chị trút hết tép vào giỏ rồi nhanh chạy về nhà để nhận cái yếm đỏ, còn Tấm thì “ngồi bưng mặt khóc” vì cảm thấy bất công. Kế đến, từ sự việc con cá bống bị mẹ con Cám bắt ăn thịt, Tấm cũng “oà lên khóc” vì thấy bị thua thiệt, đến việc đi xem hội, Tấm không được sắm sửa quần áo đẹp đã đành, đằng này bà dì ghẻ còn cản trở Tấm bằng cách “bắt cô phải nhặt xong mớ gạo thóc đã được trộn lẫn với nhau”, cô Tấm lại một lần nữa “ngồi khóc một mình”. Rồi cả việc so sánh Cám như “chuông khánh”, còn Tấm là “mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”, “bĩu môi” khi thấy Tấm xuất hiện ở đám hội, “ngạc nhiên và hằn học” nhìn Tấm lên kiệu về cung. Tấm sung sướng bao nhiêu thì mẹ con Cám càng uất hận bấy nhiêu. Tất cả đã phần nào thể hiện được sự mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám, mâu thuẫn sau cao hơn mâu thuẫn trước, từ mâu thuẫn nhỏ đến mâu thuẫn gay gắt, không thể dung hoà. Và sự mâu thuẫn chỉ được giải quyết bẳng sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, không phải bằng con đường điều hoà mâu thuẫn.

        Sự ganh ghét như loài sâu bọ đục khoét vào sâu trong tư tưởng biến thành ngọn lửa uất hận, khiến cho lương tâm và lý trí ngày cần thối rữa, cho đến khi sự tàn ác lấn áp tất cả. Gặp được dịp may hiếm có, Tấm về nhà giỗ cha. Mẹ com Cám lập kế giết chết Tấm hòng cướp đi hạnh phúc mà cô đang có.

        Truớc lúc chết, mỗi lần Tấm gặp khó khăn, dẫu cho có cảm thấy bất công, bị thua thiệt hay tủi phận, thì cô đều tỏ ra yếu đuối, chỉ biết khóc và nhờ vào sự phù trợ của ông Bụt. Bụt hiện ra, đền bù những thua thiệt, mất mát của Tấm và thường là sự đền bù to lớn, tốt đẹp hơn. Ở phuơng diện ý nghĩa xã hội, sự giúp đỡ của Bụt thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả dân gian, tức đa số nhân dân lao động đối với Tấm , cũng như đối với những người hiền lành, nghèo khổ và có phẩm chất tốt đẹp như Tấm. Mặt khác, có thể nói Bụt đóng vai trò tạo thêm sức mạnh cho Tấm để đi đến thắng lợi. Nhưng ông Bụt giúp Tấm được bao nhiêu thì lại bị cướp đi hết bấy nhiêu và cuối cùng cướp luôn cả mạng sống của Tấm mà ông Bụt cũng bó tay, bất lực. Có lẽ cô quá yếu đuối, yếu đuối đến mức không giữ nỗi hạnh phúc của mình, để cho người khác cướp mất. Nếu không muốn nói đó là sự nhu nhược ko dám nói lên tiếng nói cho riêng mình, một hiện tượng không những phổ biến trong xã hội phong kiến xưa mà cả trong xã hội hiện nay. Trong cuộc sống, hạnh phúc thực sự chỉ có thể do bản thân mình tự đấu tranh mà có, bởi ai ai cũng muốn hưởng hạnh phúc,  mà cái hạnh phúc ấy thì lại quá ít ỏi để có thể chia sẻ. Vậy tại sao cô không thể đứng dậy đấu tranh cho bản thân mình. Vì thế cho nên, ở giai đoạn hậu thân, Tấm phải tự mình đảm nhiệm phần việc mà ông Bụt đã không giúp và không thể giúp. Khi còn sống, Tấm hiền dịu, ngây thơ, nhân hậu bao nhiêu thì sau khi chết cô lại đáo để và quyết liệt bấy nhiêu (tiếng chim vàng anh, tiếng kêu của khung cửi và hành động trả thù mẹ con Cám cuối cùng chứng tỏ điều này).

          Phần mẹ con Cám, cái giá của việc cướp đi một sinh mạng là rất nặng nề, nặng đến mức… thậm chí có thể huỷ hoại chính mình. Một khi đã giết người vì lợi ích cá nhân mình, bọn họ đã tự đeo cho mình cái mặt mạ của quỷ dữ không bao có thể tháo bỏ, huống chi họ không những giết Tấm 1 lần, mà là nhiều lần chỉ nhầm bảo vệ cái hạnh phúc giả tạo mà họ đã cướp mất từ tay Tấm. Chính vì vậy họ phải gánh lấy cái giá nặng nề của kẻ giết người. Những kẻ thủ ác đã gặp báo ứng. 
       Qua truyện “Tấm Cám”, ta thấy được cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay, cái ác có thể mạnh nhưng không thể tồn tại vĩnh viễn, cái thiện có thể yếu nhưng vẫn luôn tồn tại để đấu tranh chống lại cái ác. Một chân lý, người ở hiền thì sẽ gặp lành và kẻ gieo gió ắt cũng có ngày gặp bão.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Khát vọng hạnh phúc, công bằng trong truyện cổ tích “Tấm Cám”.

4. Củng cố:

- Mâu thuẫn, xung đột trong truyện cổ tích “Tấm Cám”. Quan niệm của nhân dân về lẽ công bằng, sự chiến thắng của cái thiện, chính nghĩa.

5. Dặn dò

- Học bài cũ.

- Chuẩn bị bài : Khái quát ca dao.

Ngày soạn : 09/11/2017

Tiết 57-58.

KHÁI QUÁT CA DAO

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Đồng cảm với tâm hồn người lao động và yêu quý những sáng của họ. Biết cảm thông với số phận những con người bất hạnh, thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực cảm thụ văn học cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người dân lao động thời xưa và năng lực tư duy phát hiện sự độc đáo trong nghệ thuật của ca dao.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Khái niệm:

 Là lời thơ trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả đời sống nội tâm con người.

2. Phân loại: Theo nội dung chủ đề:

- Ca dao than thân : Những câu hát than thân có số lượng lớn và rất tiêu biểu trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam. Những câu hát đó thường dùng các sự vật, con vật gần gũi làm hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ, so sánh để diễn tả tâm trạng, thân phận con người.

- Ca dao yêu thương tình nghĩa.

- Ca dao hài hước.

3. Đặc sắc nghệ thuật:

- Dung lượng: ngắn gọn (từ 2 đến trên dưới 20 câu).

- Thể thơ: phần lớn được viết bằng thể lục bát và song thất lục bát cùng các biến thể của chúng.

- Ngôn ngữ: + Giản dị, gần gũi với lời nói hàng ngày, giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ.

+ Có lối diễn đạt bằng một số công thức mang đậm sắc thái dân gian (môtíp nghệ thuật).

- Cách cấu tứ:

+ Phú: phô bày, diễn tả một cách trực tiếp, ko thông qua so sánh về người, việc, tâm tư, tình cảm.

VD: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh nước biếc như tranh họa đồ; Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai;...

+ Tỉ: dùng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ để bộc lộ tâm tình của người lao động.

VD: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống than; Thuyền ơi có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền;...

+ Hứng: chỉ những bài ca dao trước nói đến “cảnh” (bao gồm cả sự vật, sự việc) sau mới bộc lộ “tình” (tình cảm, ý nghĩ, tâm sự)

VD: Trên trời có đám mây xanh/ ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng/ ước gì anh lấy được nàng/ Để anh mua...

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1 :

Hãy chọn vài câu ca dao – dân ca Việt Nam đã học và đọc để chứng minh ý kiến của Bác Hồ: Những sáng tác ấy là những viên ngọc quý.

Bài làm :

Có những giá trị sẽ bị quy luật thời gian đào thải nhưng có những giá trị mà thời gian càng khẳng định giá trị tồn tại vĩnh hằng. Những bài ca dao dân ca hay trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam đã thể hiện được giá trị bất chấp bụi thời gian. Cho nên Bác Hồ khi phát biểu về ca dao – dân ca đã nói rằng “ca dao dân ca là những viên ngọc quý".

Thế nào là viên ngọc quý? Ngọc là loại trang sức rất đẹp, có màu sắc tươi đẹp, chất trong sáng lấp lánh khiến mọi người thích ngắm. Nhất là khi nó qua tay người thợ thiên tài thì nó không còn một khuyết điểm nào, nó không còn một tì vết nào, và trở thành hoàn hảo, vô giá.

Ca dao dân ca hay cùng như viên ngọc quý được trau chuốt bởi bàn tay, khối ốc của nghệ sĩ nhân gian đầy tài năng, nên nó có giá trị nội dung và nghệ thuật tinh vi mà vẫn giữ được cái vẻ tự nhiên, vẫn giữ được bản sắc giản dị mà đẹp đẽ của nó,

Thử chọn vài bài ca dao đã học để khẳng định giá trị hoàn hảo về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật của ca dao dân ca Việt Nam.

Bài “Nụ tầm xuân” là một bài ca dao hay về ý đẹp về lời.

Với thể thơ lục bát gián thất biến thể, bài thơ không tuân thủ một quy tắc nào về thi luật nhưng lại có một ưu điểm nổi bật vì nó đã góp phần tạo nên tính phong phú về nhạc điệu trong bài thơ. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc diễn xướng, vì đặc trưng của ca dao dân ca là hát lên, nhưng nhịp thay đổi từ nhịp chẵn: 4/2 (trèo lên cây bưởi / hái hoa), 4/4 (bước xuống vườn cà / hái nụ tầm xuân) chuyển sang nhịp lẻ chẵn 3/4 (nụ tầm xuân / nở ra xanh biếc) và từ vần bằng của lục bát chuyển sang hiệp vần trắc song thất: hoa/cà (lục bát) biếc / tiếc (thất bát). Tác giả lại bồi thêm cách láy ở câu thứ ba “nụ tầm xuân/nụ tầm xuân" và các câu sau cùng theo kết cấu vần điệu mới mẻ như thế làm cho bài thơ có âm điệu ngọt ngào tha thiết làm xúc động người nghe.

Hình ảnh thơ là chất liệu lấy từ cuộc sống dân dã đời thường ở nông thôn: cây bưởi, vườn cà, nụ tầm xuân, chim, cá… nên tạo cảm giác rất thân quen. Rất quen nhưng cũng rất lạ lẫm mới mẻ vì nụ tầm xuân hồng, trắng thường ngày trở nên màu xanh biếc. Cho nên tuy nói đơn giản nhưng rất ẩn dụ, chỉ nói “nụ tầm xuân” thôi cùng đã ẩn dụ cho tình yêu, cho vẻ đẹp của người con gái rồi, huống chi “nụ tầm xuân xanh biếc”, càng gợi lên cái vẻ tươi non hồn nhiên, vậy mà “em đã có chồng” rồi. Cho nên cảm giác “tiếc” càng xót xa đến tận tâm can. Cái màu xanh ấy mới trở nên lãng mạn trữ tình biết bao! Cái màu xanh ấy sao xuyến gợi thương, gợi nhớ. Cái thương nhớ một thời trẻ trung nhiều kỉ niệm của đôi trai làng gái quê cùng xóm cùng làng. Vậy mà họ không kịp lấy nhau vì chàng trễ nãi, không ngờ nàng phải chịu gả chồng ngay trong cái độ chưa chín, cái độ non tơ “xanh biếc”, “tiếc lắm thay” mối tình xanh ngời ngợi! Câu thơ buông xuống như tiếng thở dài nghẹn ngào cho nên chàng trai không thế nói thêm được lời nào. Cái im lặng của chàng trai ở đây đã thể hiện trình độ nghệ thuật tinh tế của người nghệ sĩ nhân gian… là cả một sự trải nghiệm về tình yêu và cuộc đời. Có những lúc sự im lặng là vàng. Nó nói lên tất cả mọi điều mà ngôn từ không còn khả năng biểu hiện. Tuyệt hay, đó không phải là chất ngọc vẻ ngọc sao?

Biện pháp tu từ so sánh, kết hợp với lối điệp liên hoàn và song hành ở cuối bài thơ góp phần khẳng định cái chất ngọc của ca dao, nó gợi lên một cách đầy đủ và sống động cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam xưa: có chồng theo sự ép buộc của gia đình hoặc theo sự cường đoạt của nhà giàu, người phụ nữ xưa phải sống không tự do, không hạnh phúc, bị trói buộc như nô lệ. Cách so sánh quen thuộc nhưng rất hay. Bởi “chim lồng, cá móc câu” thì còn mong ước gì tự do, còn mong gì được sống theo ý mình! Tâm trạng đau khổ, tiếc hận cuộc đời bế tắc không lôi thoát, không ánh sáng tương lai thể hiện rất rõ trong lời than của cô gái làm não lòng người nghe, làm nhức nhối tim gan chàng trai.

Chỉ có mười câu ca dao mà người xưa đã gợi lên cả một vấn đề lớn, tình yêu lứa đôi và thân phận con người. Sự đồng cảm của tác giả đã tạo nên một giá trị nhân đạo cho ca dao, lời tiếc nuối của chàng trai và lời than thân trách phận của cô gái tạo nên giá trị nhân bản cho ca dao. Các biện pháp nghệ thuật tinh tế nâng cánh cho bài ca dao mang những giá trị hiện thực, nhân bản, nhân đạo quý giá ấy vượt bức tường thời gian để đến với chúng ta ngày nay.

Bài “Tát nước đầu đình” có cái hay về nội dung, thế hiện trí thông minh, tình cảm chân thành nghiêm túc của người bình dân.

Cái hay nghệ thuật; hình ảnh chọn lọc phù hợp vừa có tính truyền thống vừa có sự sáng tạo. Biện pháp tu từ ẩn dụ được tận dụng nhiều lần: “cái áo”, “cành sen”, “cái áo trên cành hoa sen”, “áo sứt chỉ đường tà", “áo sứt chí đã lâu”. Biện pháp liệt kê và hoán dụ cùng đã được vận dụng tập trung và linh hoạt ở đoạn cuối góp phần tạo nhạc cho thơ khiến bài ca dao hết sức sôi nổi, hào hứng, khẩn trương. Cách dẫn dắt vấn đề, cách dùng từ là một thành công xuất sắc của bài ca dao trữ tình này: linh hoạt, tinh tế, nói lên được cái chất thông minh, khỏe mạnh về tinh thần, hoạt bát về ứng đối, trẻ trung duyên dáng trong giao tiếp.

Bài ca dao còn để lại cho những thế hệ sau này một minh chứng bằng văn bản về phong tục cưới xin của dân tộc ngày xưa.

Qua hai bài ca dao, ta hiểu được đời sống, những sinh hoạt cộng đồng lành mạnh ngày xưa của tuổi trẻ Việt Nam. Đó là một viên ngọc lấp lánh, vẻ tài hoa, trí tuệ, trừ tình của nhân dân ta ngày xưa.

Đề 2:

“Qua ca dao, người bình dân Việt Nam đã thể hiện được những tình cảm thiết tha và cao quý của mình”. Lấy dẫn chứng là những bài ca dao đã được học, em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

Bài làm :

Ca dao không những là tiếng nói của khối óc mà chủ yếu còn là tiếng nói trái tim của nhân dân ta. Thật vậy, trong hàng ngàn năm sống, làm việc và chiến đấu đã qua, cha ông ta đã bày tỏ tình cảm buồn vui của mình trong vô vàn câu ca dao gợi cảm. Qua đó, chúng ta cảm nhận được những tình cảm thiết tha và cao quý của người Việt Nam mình thật rõ rệt.

Đầu tiên, tiếng nói trái tim ấy thể hiện khá sinh động tình yêu quê hương đất nước của cha ông ta. Đó là niềm tự hào, gắn bó kháng khít với bao danh lam thắng cảnh của nơi chôn nhau cắt rốn.

Điều này dễ hiểu. Thời xưa, điều kiện đi lại khó khăn, hiểu biết của mỗi người đều có hạn, ít ai hình dung được hết một dải gấm vóc non sông trải dài từ Bắc chí Nam của đất nước mình. Do vậy, mỗi người, ai cũng gắn bó máu thịt với làng mạc quê hương, ruộng lúa, bờ tre, ngọn rau, tấc đất của mình. Chính vì lẽ đó mà người dân xứ Lạng tự hào:

Đồng Đăng có phố Kì Lừa 

Bỏ công bác mẹ sinh thành ra em.

Người con của mảnh đất xứ Nghệ cũng hãnh diện về quê hương mình:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh 

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

Xưa kia hay ngay cả bây giờ, trong hàng triệu người Việt Nam, có biết bao người chưa một lần đặt chân đến Kinh kì (Đông Đô, Thăng Long, Hà Nội), mảnh đất trái tim Tổ quốc. Thế nhưng ai lại không xúc động tâm hồn khi nghe thấy những lời ca thắm thiết:

Gió đưa cành trúc la đà

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Dù yêu một cây đa bến nước vô danh, hay yêu bức “họa đồ” của một vùng “non xanh nước biếc” hữu danh nào đó, thì đây cũng là khới điểm của tình yêu đất nước, là tình cảm cao quý, thiêng liêng đối với hồn thiêng sông núi Việt Nam.

Chính từ tình yêu cao cả ấy mà mỗi người Việt Nam xác định được một thái độ tình cảm đúng đắn, đối xử thân ái với nhau, “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách”, hỗ trợ nhau trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Khi ấy, lòng yêu nước thể hiện ra ở tình cảm đồng bào máu thịt:

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Bầu và bí tuy là khác giống, nhưng vẫn mang nặng nghĩa chị tình em, vì cùng sinh trưởng chung trên một giàn. Con người đâu khác. Tuy nguồn gốc, hoàn cảnh và địa vị xã hội khác nhau, nhưng mọi người vần tồn tại trong cùng chung một đất nước. Trong quá trình dài lâu sông chung với nhau như thế, tình cảm hình thành, phát triển, trong ngôn ngữ Việt Nam chúng ta có từ đồng bào đề chỉ “người trong một nước”. Từ đó, một câu ca dao đầy gợi cảm đã nảy sinh từ nghìn xưa, đến nay ai ai cũng nhớ nằm lòng:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương 

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Trong ca dao Việt Nam, tình yêu đất nước đồng bào thiết tha, nồng thắm bao nhiêu thì tình cảm gia đình càng thiết tha nồng thắm bây nhiêu. Điều này đã rõ. Gia đình từ nghìn xưa vốn là đơn vị cơ bản của đất nước. Gia đình thuận hòa, êm ấm là góp phần làm nên một xã hội phồn vinh hạnh phúc. Ai cũng biết trong tình cảm gia đình, cao quý nhất là tình cảm của con cái đối với các bậc sinh thành. Ca dao có biết bao câu tuyệt đẹp về mối quan hệ này:

Công cha như núi Thái Sơn

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Đặc biệt, ca dao có những câu tuyệt đẹp về tình cảm mẹ con:

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ,

Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.

Vì thế, khi chia xa, phải rời mẹ, có người con nào không khỏi bâng khuâng đau xót:

Chiều chiều chim vịt kêu chiều 

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.

Trân trọng tình cảm gia đình, nhân dân ta đề cao tình yêu vợ chồng gắn bó nồng thắm, thủy chung. ‘“Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Cả trong cảnh ngộ đói nghèo, khổ cực, người bình dân vần yêu đời:

Râu tôm nấu với ruột bầu 

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.

Bởi lẽ họ nghĩ là:

Thà rằng ăn bát cơm rau

Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời.

Trong cuộc sống, nhân dân phải làm việc vất vả, thường xuyên va chạm với biết bao trở ngại chông gai, hiểm nguy, cùng cực, nhưng từ nghìn xưa, người lao động vẫn luôn giừ được lòng son sắt với cuộc đời. Có gì nhọc nhằn hơn công việc một nắng hai sương, dầm mưa dãi gió, để mong sao có được “dẻo thơm một hạt”. Thế mà họ làm nên đươc bao khúc hòa ca lao động:

Trên đồng cạn dưới đồng sâu 

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

Mỗi thành viên một việc làm, kể cả con trâu nữa chứ! Đủ thấy đối với nhà nông, thật đúng “con trâu là đầu cơ nghiệp”, nên được họ yêu thương biết mấy. Thử nghe lời họ thủ thí với con trâu:

Trâu ơi! Ta bảo trâu này 

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta 

Cây cày vốn nghiệp nông gia 

Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công 

Bao giờ cây lúa còn bông 

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Gắn bó khăng khít với thiên nhiên, hơn ai hết, người nông dân yêu mến, hănh diện trước bức tranh thiên nhiên hào phóng, tươi đẹp, có cả phần xương máu, mồ hôi của cha ông bao đời, cua cả chính mình góp phần tô điểm:

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát 

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng bát ngát mênh mông 

Thân em như chẽn lúa đòng 

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. 

Chính lòng yêu đời, niềm lạc quan, đã giúp người lao động vượt lên mọi gian khổ nhọc đề vui sống, vững tin:

Công lênh chẳng quản bao lâu 

Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.

Cho dầu phải lâm vào cảnh đời đau thương tủi cực, phải lỡ bước sa chân, người nông dân hướng thiện, trước sau vẫn giữ vẹn một tấm lồng nhân hậu thủy chung, nào khác con cò trong câu ca dao gợi cảm: dù chết vẫn muốn dược chết trong sạch, thanh cao:

Có xáo thời xáo nước trong 

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Bởi vậy, cố người so sánh vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân với hoa sen:

Nhụy vàng bông trắng lá xanh 

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Là phương tiện để bày tỏ tiếng nói trái tim, nói chung, ca dao đã thể hiện khá sinh động, tuy chưa phải là đầy đủ và toàn diện những sắc thái tình cảm thiết tha và cao quý của nhân dân lao động, nhưng cũng đủ cho ta thấy một đời sống tinh thần phong phú, đa dạng của những người đã sản sinh ra nó. Ngày nay đọc lại, ai cùng thấy ngoài giá trị nghệ thuật văn chương, ca dao còn có giá trị nhân văn to lớn.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Lập dàn ý cho đề bài sau :

“Lời thơ dân gian không những sẽ bước đầu cho ta làm quen với tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa kia mà đồng thời sẽ còn giúp ta học được những cách nói năng tài tình chính xác. Theo tôi, đối với một người Việt Nam mà thiếu những kiến thức này thì có thể xem như là thiếu một trong những điều cơ bản.”

(Hoài Thanh, Một vài suy nghĩ về ca dao, Báo Văn nghệ, số 1,2-1-1982)

Qua một số bài ca dao đã học, đã đọc, anh (chị) hãy giải thích và làm sáng tỏ ý kiến trên.

4. Củng cố:

- Khái niệm, đặc trưng của ca dao.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 10/11/2017

Tiết 59-60.

KHÁI QUÁT CA DAO

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Đồng cảm với tâm hồn người lao động và yêu quý những sáng của họ. Biết cảm thông với số phận những con người bất hạnh, thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp, Năng lực cảm thụ văn học cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người dân lao động thời xưa và năng lực tư duy phát hiện sự độc đáo trong nghệ thuật của ca dao.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1 :

“Lời thơ dân gian không những sẽ bước đầu cho ta làm quen với tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa kia mà đồng thời sẽ còn giúp ta học được những cách nói năng tài tình chính xác. Theo tôi, đối với một người Việt Nam mà thiếu những kiến thức này thì có thể xem như là thiếu một trong những điều cơ bản.”

(Hoài Thanh, Một vài suy nghĩ về ca dao, Báo Văn nghệ, số 1,2-1-1982)

Qua một số bài ca dao đã học, đã đọc, anh (chị) hãy giải thích và làm sáng tỏ ý kiến trên

Hướng dẫn :

  1. Dẫn dắt, giới thiệu ý kiến
  2. Giải thích ý kiến của Hoài Thanh

+Lời thơ dân gian

-Trong văn học dân gian có rất nhiều thể loại tập trung thể hiện đời sống của người dân xưa.

-Trong đó, ca dao là thể loại trữ tình bằng văn vần, diễn tả đòi sống nội tâm của con người. Nói cách khác, ca dao là thơ trữ tình dân gian truyền thống.

-Lời thơ dân gian là nói đến ca dao

+Làm quen với tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa kia

-Ca dao là tiếng nói tâm hồn sâu lắng, tha thiết của đồng bào ta xưa kia.

-Trong ca dao, tất cả những nỗi niềm cảm xúc của nhân dân ta đều được bộc lộ. Đó là tiếng nói của tình yêu đôi lứa, là những lời than thân trách phận, là tiếng cười vừa hài hước, vừa sâu cay, là mơ ước, là hi vọng, chờ đợi…

-Đọc và tìm hiểu ca dao, người đọc sẽ cảm nhận được tất cả những cung bậc cảm xúc đó trong đời sống tinh thần của người xưa.

+Học được cách nói năng tài tình, chính xác

-Trong văn học dân gian cũng như trong ca dao ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu là lời ăn tiếng nói hằng ngày giản dị, nôm na của những người lao động.

-Song cách nói năng ấy không phải không tài tình chính xác. Đó là cách nói xa vời, bay bổng khi thể hiện một tình yêu thầm kín, là cách nói đầy hình ảnh khi bộc bạch tâm trạng xót xa cho thân phận nghèo, là cách nói hóm hỉnh khi giễu cợt, đả kích…                                          - Cách nói năng đó đã giúp người đọc ca dao có thêm những kinh nghiệm quý báu trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc.

+Thiếu một trong những điều cơ bản

-Điều cơ bản: điều cốt lõi, không thể không có

-Văn học dân gian Việt Nam nói chung và ca dao Việt Nam nói riêng là kho tàng quý báu chứa đựng những nét đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc Việt Nam, là cội nguồn của sự hình thành và phát triển đời sống tinh thần của mỗi con người Việt Nam.

-Đến với văn học dân gian, đến với ca dao, mỗi người Việt Nam sẽ được đến với đời sống của chính ông cha, tổ tiên mình. Đó là nền tảng cơ bản cho sự phát triển mỗi nhân cách.

* Nội dung của cả ý kiến: Hoài Thanh khẳng định: Ca dao Việt Nam. không chỉ giúp mỗi người Việt Nam hiểu được đời sống tinh thần phong phú, đẹp đẽ của cha ông mình xưa kia mà còn giúp họ có thêm những cách nói năng giản dị mà chính xác, tài tình khi sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đó là những kiến thức cốt lõi không thể thiếu để mỗi con người Việt Nam tự phát triển mình.

  1. Làm sáng tỏ ý kiến

3.1. Ca dao thể hiện tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa

  • Tình yêu thiên nhiên
  • Tình cảm gia đình: tình cảm của con cái đối với cha mẹ, tình cảm vợ chồng, tình cảm anh em…
  • Tình yêu đôi lứa: Khát vọng hạnh phúc, hôn nhân. Nỗi nhớ nhung da diết. Tấm lòng thuỷ chung, son sắt
  • Tiếng nói than thân: Xót xa cho thân phận người phụ nữ phải sống phụ thuộc, không được quyết định hạnh phúc của mình. Lo lắng hạnh phúc tan vỡ do những rào cản của xã hội và sự mong manh của tình yêu. Đau đớn trước thân phận nhỏ mọn và khát vọng một tâm hồn trong sạch, cao đẹp
  • Tiếng cười hài hước: cười để giải trí; cười để chế giễu, tố cáo (Với từng biểu hiện, học sinh đưa dẫn chứng phân tích và chứng minh)

3.2. Ca dao giúp học được cách nói năng tài tình chính xác

  • Tài tình:

-Ngôn ngữ trong ca dao vốn giản dị, mộc mạc, đời thường nhưng ” cũng rất tinh tế, giàu hình ảnh

– Hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi: dải lụa đào, cầu dải yếm, mười tay…

-Biện pháp tu từ nghệ thuật: so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp, đối…

+Chính xác: Ngôn ngữ phù hợp, hiệu quả trong việc diễn tả những cung bậc khác nhau của tâm tư, tình cảm

-Ca dao tình yêu: Ngôn ngữ nhẹ nhàng, bay bổng, đầy tâm trạng

-Ca dao than thân: Ngôn ngữ lắng đọng, day dứt

-Ca dao hài hước: Ngôn ngữ hóm hỉnh, giễu cợt, đả kích với việc tạo ra những hình ảnh đối lập, gây cười

(Với từng biểu hiện, học sinh đưa dẫn chứng phân tích và chứng minh)

  1. Đánh giá chung

-Ý kiến đánh giá của Hoài Thanh vừa nêu được những nét đẹp của ca dao vừa khẳng định được ý nghĩa của ca dao trong đời sống tinh thần  của người dân Việt Nam.

Từ ý kiến đó, người đọc càng thêm yêu quý, trân trọng kho tàng ca dao và có cái nhìn đúng đắn về vị trí của nó trong văn học dân tộc và trong đời sống

Đề 2.

Nhận xét về ca dao Việt Nam, có ý kiến cho rằng: Học ca dao chính là học cách sống, cách làm người.

Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua những bài ca dao đã được học và đọc.

Gợi ý :

1. Giới thiệu : vấn đề cần nghị luận

2. Giải thích ý kiến

- Ca dao là thể loại trữ tình bằng văn vần, diễn tả đời sống nội tâm của người bình dân ta xưa. Ca dao là nơi người lao động gửi gắm những yêu thương, sướng vui, đau khổ, hoài bão, ước mơ, niềm mong mỏi… Ca dao được coi là thơ của vạn nhà, là tấm gương soi tâm hồn và đời sống dân tộc.

- Học ca dao là học cách sống, cách làm người :

+ Đọc, học ca dao ta thường gặp được những cách sống rất đẹp của người bình dân ta xưa…

+ Đọc, học ca dao ta còn bắt gặp những phẩm chất vô cùng tốt đẹp truyền thống của người Việt Nam được thể hiện sinh động thông qua các mối quan hệ ứng xử …

Vì thế, học ca dao là ta được giáo dục về nhận thức, tư tưởng, tình cảm, cách sống giúp ta sống tốt hơn, đẹp hơn, tinh tế hơn, nhân ái hơn, nhân cách phát triển toàn diện.

Như vậy, ý kiến trên đã khẳng định một trong những chức năng quan trọng nhất của ca dao, đó là chức năng giáo dục, hướng con người đến cái chân, thiện, mỹ.

3. Chứng minh : qua việc phân tích một số bài ca dao đã học và đọc trong chùm ca dao yêu thương tình nghĩa, than thân, hài hước châm biếm, học sinh làm rõ một số ý chính sau:

- Học ca dao, ta học được lối sống nhân hậu, thủy chung, coi trọng tình nghĩa (trong đó đề cao nghĩa hơn tình).

+ Tình yêu, tình vợ chồng.

+ Tình cảm gia đình, bạn bè, quê hương.

- Học ca dao, ta biết đồng cảm với những nỗi khổ của con người, biết trân trọng đề cao những vẻ đẹp và phẩm giá của con người.

- Học ca dao, ta học được lối sống lạc quan, dù cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả nhưng vẫn cười vui yêu đời, vẫn không ngừng tin tưởng và mơ ước về tương lai.

- Học ca dao, ta học được tinh thần phê phán hiện thực sắc sảo.

- Học ca dao, con người trở nên tinh tế, ý nhị, văn hóa hơn trong cách thể hiện tình cảm, trong giao tiếp ứng xử.

4. Đánh giá chung

- Giáo dục là chức năng quan trọng khẳng định giá trị của những tác phẩm văn học chân chính. Không riêng gì ca dao mà các thể loại khác của văn học dân gian và văn học viết sau này cũng có chức năng giáo dục. Tuy nhiên, ở ca dao, chức năng này dễ thực hiện hơn có lẽ bởi ca dao là tiếng nói tình cảm, là cây đàn muôn điệu của tâm hồn nên dễ dàng tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Ca dao dễ đi vào lòng người nên có khả năng giáo dục con người một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thấm thía hơn bất kì thể loại nào khác của văn học dân gian.

- Riêng đối với các nhà thơ: họ không chỉ học máu và mồ hôi, nước mắt và nụ cười (…) các nhà thơ học được thơ ở trong ca dao nữa.

- Hiểu được giá trị to lớn của ca dao ta cần nâng niu, trân trọng, giữ gìn kho tàng ca dao Việt Nam để cho nó mãi là những viên ngọc quý…

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Có ý kiến cho rằng: Chủ thể trữ tình của ca dao khi cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ; nhưng khi cảm nghĩ về những người thương mến, về những nơi, những vật thân thuộc là thấy yêu, thấy thương...”.

Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua những bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa đã học ở chương trình Ngữ văn 10.

Gợi ý:

1. Giới thiệu khái quát về ca dao và nêu được nhận định về nội dung của ca dao trữ tình.

2. Giải thích nhận định:

- Chủ thể trữ tình (tác giả ca dao) là người bình dân, nhân dân lao động, sống trong cuộc đời trăm đắng, ngàn cay nhưng đằm thắm ân nghĩa bên gốc đa, giếng nước, sân đình... Và tác phẩm của họ cũng được sinh ra từ cuộc đời ấy. Nó phản ánh cuộc đời, tâm tình của người bình dân.

- Chủ thể trữ tình của ca dao khi cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ. Họ cất lên những tiếng nói than thở về những nỗi bất hạnh của mình: than về phận khó, về nỗi cơ cực, về lỡ duyên, ...

- Chủ thể trữ tình khi cảm nghĩ về những người thương mến về những nơi, những vật thân thuộc là thấy yêu, thấy thương... Họ cất lên câu hát yêu thương, tình nghĩa chứa chan tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đình, quê hương đất nước...

--> Nhận định đã khái quát được hai nội dung chủ yếu của ca dao trữ tình: Nỗi xót xa, đắng cay và tình cảm yêu thương, thủy chung, đằm thắm ân tình của người bình dân trong xã hội cũ.

3. Phân tích, chứng minh nhận định:

a. Chủ thể trữ tình của ca dao khi cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ (Những bài ca dao than thân).

- Họ thường là những người phụ nữ sống trong xã hội cũ:

+ Ý thức được vẻ đẹp riêng, giá trị của mình (“tấm lụa đào”: vẻ đẹp duyên dáng, mềm mại, xuân sắc, quý giá..., “củ ấu gai” - “ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen”: vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn). (0,5đ)

+ Xót xa cho thân phận nhỏ bé, đắng cay, tội nghiệp (Thân em...) nhưng nỗi đau khổ của từng người lại mang những nét riêng (“tấm lụa đào”: đẹp nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, không tự quyết định được số phận của mình; “củ ấu gai”: có phẩm chất tốt đẹp bên trong nhưng không được ai biết đến, vẻ đẹp ấy bị che phủ bởi cái bề ngoài xấu xí, đen đủi...) (0,5đ)

- Họ có thể là những chàng trai, cô gái lỡ duyên, hoặc bị ép duyên mà tình yêu dang dở. Vì thế, tiếng thơ như lời trách móc, oán giận, đầy xót xa, cay đắng (Trèo lên cây khế nửa ngày/Ai làm chua xót lòng này khế ơi!...)

b. Nhưng khi cảm nghĩ về những người thương mến, về những nơi, những vật thân thuộc là thấy yêu, thấy thương (Những bài ca dao yêu thương, tình nghĩa)

- Đó là nỗi nhớ người yêu của cô gái được gửi vào hình ảnh: khăn, đèn, mắt... Hỏi khăn, đèn, mắt cũng là hỏi lòng mình. Cô gái ra ngẩn vào ngơ, bồn chồn, thao thức với bao vấn vương, lo âu, phấp phỏng cho hạnh phúc lứa đôi (Khăn thương nhớ ai...)

- Có khi, người con gái mượn chiếc cầu dải yếm để nói lên mơ ước mãnh liệt của mình trong tình yêu. Một lời tỏ tình kín đáo, ý nhị, duyên dáng mà rất táo bạo. (Ước gì sông rộng một gang...)

- Họ mượn hình ảnh muối, gừng để diễn tả sự gắn bó sâu nặng của con người. Độ mặn của muối, độ cay của gừng còn có hạn nhưng tình cảm con người mãi son sắt, thủy chung. (Muối ba năm muối đang còn mặn...)

4. Đánh giá, mở rộng:

- Những câu hát than thân, yêu thương tình nghĩa đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của người bình dân xưa: trong cuộc sống còn nhiều vất vả, cơ cực, đắng cay, họ vẫn sống ân nghĩa, đằm thắm tình người, vẫn luôn khát khao tình yêu, hạnh phúc.

- Người bình dân đã lựa chọn những hình thức nghệ thuật riêng, đậm màu sắc trữ tình dân gian: thể thơ lục bát, song thất lục bát; hình thức đối đáp; công thức mở đầu “Thân em...”, “Trèo lên...”; hình ảnh biểu tượng, cách so sánh, ẩn dụ...

4. Củng cố:

- Khái niệm, đặc trưng của ca dao.

- Ca dao thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người Việt.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

- Chuẩn bị bài : Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

Ngày soạn : 15/11/2017

Tiết 61-62.

CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA (1)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Đồng cảm với tâm hồn người lao động và yêu quý những sáng của họ. Biết cảm thông với số phận những con người bất hạnh, thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp. Năng lực cảm thụ văn học cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người dân lao động thời xưa và năng lực tư duy phát hiện sự độc đáo trong nghệ thuật của ca dao.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Thân phận của người phụ nữ qua các bài ca dao mở đầu bằng “Thân em”.

Bài làm 1 :

Ca dao là tiếng tơ lòng muôn điệu, trải dài với những cung bậc cảm xúc, tâm tư và tình cảm của người lao động bình dân. Lắng đọng và trũ tình là những câu hát than thân thường mở đầu bằng mô típ “ thân em”. Qua đó, phản ánh một cách sâu sắc số phận của người phụ nữ đầy bi kịch, oan trái trong xã hội phong kiến mục nát, suy tàn – tạo cho độc giả sự đồng cảm, chia sẻ và trân trọng!Mảng ca dao mở đầu bằng “thân em” trở thành mô típ dể nói về thân phận, cuộc đời người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó thường là số phận bi kịch và đắng cay được gửi gắm vào trong ca dao bằng giọng điệu buồn tẻ, chua xót và ngậm ngùi. Cách nói giản dị, khiêm nhường song hàm súc nhiều ý nghĩa. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa trở thành chủ thể trữ tình của câu hát than thân trách phận. Bởi lẽ, chế độ phong kiến mục nát với luật lệ hà khắc đã chà đạp lên quyền sống, mưu càu hạnh phúc của con người đặc biệt là người phụ nữ. Cuộc sống lao động cực nhọc, vất vả mưu sinh và lệ thuộc vào hoàn cảnh đã đẩy người phụ nữ vào vòng xoay của bi kịch, khổ đau khó cất lên tiếng nói giãi bày:

“ Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.”

Hình ảnh “ trái bần trôi” lênh đênh trên mặt nước bị “gió dập sóng dồi” phải chăng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ xưa. Họ như những cánh hoa bé nhỏ, mong manh trôi dạt nơi bến bờ vô định, bị cuốn vào bi kịch của khổ đau, oan trái bởi thế lực đen tối. Không chỉ thế, những ràng buộc hữu hình hay vô hình lại hoành hành, khiến người phụ nữ không thể vươn lên:

“Thân em như con cá rô thia
Vào trong mắc cạn, ra ngoài mắc câu.”

Hình ảnh con cá rô đang vùng vẫy không lối thoát như chính sự bế tắt, tuyệt vọng của người phụ nữ. Họ không có quyền quyết định hạnh phúc cho bản thân, bị rào cản của xã hội, gia đình ngăn cấm, phải tùy vào “ trong nhờ đục chịu”. Hơn thế, ngay trong xã hội xưa,người phụ nữ không tìm thấy tiếng nói chung, sự bất bình đẵng giữa nam giới và nữ giới đã gieo bao khổ đau, bất hạnh. Điều này, không chỉ thể hiện trong câu hát than thân:

“ Thân lòn cúi vợ tôi chồng chúa
Đạo phu thê như đũa nên đôi
Dầu cho lúc đứng khi ngồi
Chồng làm chúa cả, thiếp thời gia nô.”

Số phận, cuộc đời của người phụ nữ là chuỗi ngày bi kịch, đắng cay đến tủi thẹn. Song, vượt lên trên hết người phụ nữ xưa vẫn vẹn toàn đức hạnh, phẩm giá; họ tự hào khẳng định về vẻ đẹp của bản thân. Nét đẹp đáng quý ấy như một đóa sen tỏa hương thơm ngát giữa chốn bùn nhơ của xã hội điêu tàn:

“Thân em như cây quế tiên non
Trăm năm khô rụi vỏ còn dính cây”
Hay:
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.”

Vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ được khẳng định mạnh mẽ, đó là đữc hạnh, tấm lòng trong trắng, thuần khiết đáng trân trọng! Song, âm điệu của câu ca vang vọng nỗi ngậm ngùi, chua xót về cuộc đời, xã hội với những thế lực đen tối.

Các câu hát than thân, trách phận thường sử dụng thể thơ lục bát hay lục bát biến thể đầy hàm súc, mang đậm tính dân tộc, thuần Việt. Từ ngữ bình dị, gắn liền với các hình ảnh so sánh gần gũi, giàu ý nghĩa ở nông thôn như chính sự mộc mạc, chân thành của hầu hết các câu ca dao.

Những câu hát than thân mở đầu bằng mô típ “thân em” dẫu khép lại nhưng khi đọc xong vẫn vang vọng trong trái tim người đọc. Bên cạnh sự trân trọng, ngưỡng mộ về phẩm chất cao đẹp của người phụ nũ còn là niềm thương cảm cho cuộc đời bất hạnh, đầy oan trái của họ trong xã hội phong kiến xưa. Lời ca than thân không chỉ là tiếng lòng mà còn thể hiện sự phản kháng, đấu tranh cho quyền lợi người phụ nữ. Xã hội phong kiến mục nát, bất công sẽ sụp đổ, thay vào đó sẽ là xã hội mới, bình đẳng, tôn trọng quyền lợi và khát vọng của con người. Nơi ấy người phụ nữ sẽ tìm được hạnh phúc đích thực cho bản thân mình.

Bài làm 2.

Kho tàng văn học dân gian Việt Nam luôn là dòng sữa mát lành nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Cùng với các thể loại khác, ra đời trong xã hội cũ, ca dao diễn tả tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân trong các mối quan hệ lứa đôi, gia đình, quê hương, đất nước... không chỉ là lời ca yêu thương tình nghĩa, ca dao còn là tiếng hát than thân cất lên từ cuộc đời xót xa, cay đắng của người Việt Nam, đặc biệt là của người phụ nữ trong xã hội cũ.

      Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ luôn bị coi nhẹ, rẻ rúng, họ không được quyền quyết định trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã chà đạp lên quyền sống của họ, đàn ông được coi trọng, được quyền “năm thê bảy thiếp”, được nắm quyền hành trong xã hội, trong khi đó phụ nữ chỉ là những cái bóng mờ nhạt, không được coi trọng. Họ phải làm lụng, vất vả cung phụng chồng con, một nắng hai sương mà cuộc đời thì tăm tối. Họ phải cất lên tiếng nói của lòng mình.

Thân em như tấm lụa đào

 Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

       Tiếng nói đầy mặc cảm, cay đắng. Người phụ nữ ví mình như một tấm lụa được người ta bày bán giữa chợ. Thân phận họ cũng chỉ là vật giữa chợ đời bao người mua. Thân phận họ bé nhỏ và đáng thương quá đỗi. Hai từ “thân em” cất lên sao xót xa, tội nghiệp. Xã hội lúc bấy giờ đâu cho họ được tự do lựa chọn, ngay từ lúc sinh ra, được là người họ đã bị xã hội định đoạt, bị cha mẹ gả bán, họ không có sự lựa chọn nào khác:

“Thân em như con cá rô thia

 Ra sông mắc lưới vào đìa mắc câu"

      Không một lối thoát nào mở ra trước mắt, họ cảm thấy cuộc đời chỉ là kiếp nô lệ, bốn phía lưới giăng. Hình ảnh “Tấm lụa đào”, hay “con cá rô thia” trong hai câu ca dao trên là hình ảnh so sánh nghệ thuật. Hình ảnh này cho ta liên tưởng tới sự tầm thường, bé nhỏ của thân phận người phụ nữ: tấm lụa thì đem ra đổi bán, con cá rô thia thì được vùng vẫy đây nhưng chỉ trong chiếc ao tù. Hình ảnh con cá rô thia cho ta nghĩ đến người phụ nữ trong sự bủa vây của truyền thống, tập tạc, quan niệm phong kiến bao đời hà khắc, đến hạnh phúc của mình cũng không được quyền quyết định:

“Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy

Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa

Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòa

Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời,

Em với anh cũng muốn kết tóc ở đời,

Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan”...

        Bao khát khao bị kìm hãm, hạnh phúc lứa đôi bị rào cản phong tục đè nén, họ ngẫm mình và cất lên tiếng than cay đắng.

“Thân em như miếng cau khô

 Người thanh chuộng mỏng, người khô tham dày”

      Câu ca dao nào cũng đầy ai oán, số phận nào cũng được ví bằng những thứ bé nhỏ, tầm thường, đó là sự ý thức, sự phản kháng của những con người triền miên bất hạnh. Họ có quyền được sống, được tự do yêu đương, nhưng xã hội đã chà đạp lên quyền của họ, chỉ cho họ một cuộc đời lầm lũi, chua cay.

“Năm nay em đi làm dâu

Thân khác gì trâu mang theo ách

Năm nay em đi làm vợ

Thân mang cày, dây khiến không biết ai?

Em đi làm dâu không có mùa nghỉ, chỉ có mùa làm.”

       Người con gái trong bài ca dao H’mông này đang than thân trách phận mình khi “xuất giá tòng phu’’. Họ lấy chồng, không phải vì hạnh phúc mà để làm một con vật lao động trong nhà chồng, một con vật suốt đời “theo ách” như trâu mang. Cuộc sống như khép lại trước mắt họ, chỉ thấy một sự trói buộc đến phũ phàng:

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra”

Có khi họ bị chồng đánh đập:

“Cái cò là cái cò quăm

Mày hay đánh vợ mày nằm với ai"

Có khi bị chồng phụ bạc:

“Nhớ xưa anh bủng anh beo

Tay bưng chén thuốc lại đèo múi chanh

Bây giờ anh mạnh anh lành

Anh tham duyên mới anh đành phụ tôi."

        Ở lĩnh vực nào người phụ nữ xưa cũng không được quyền hạnh phúc. Cuộc sống không có tự do, tình yêu không được công nhận, hôn nhân không được định đoạt, quan hệ vợ chồng không được tôn trọng... Ở mặt nào họ cũng bị vùi dập xô đẩy, cũng không được quyền lên tiếng lựa chọn. Đến cả sự tỏ bày tình yêu cũng vô cùng tội nghiệp.

“Thân em như củ ấu gai

 Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen

Không tin bóc vỏ mà xem

Ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi’’

      Ở câu than thân nào họ cũng ví mình thật tội nghiệp, nào là tấm lụa, nào là hạt mưa, nào là miếng cau khô, rồi củ ấu gai... thứ nào cũng nhỏ nhoi, tội nghiệp. Hạt mưa thì chẳng biết rơi vào đâu, miếng cau thì tùy người chọn, còn củ ấu thì có vẻ đẹp bên trong mà không ai biết. Bài ca dao này là một sự giãi bày của người phụ nữ. Người phụ nữ muốn xã hội công nhận giá trị của mình, nhưng vẫn đầy tự ti: “Không tin bóc vỏ mà xem, ăn rồi mới biết là em ngọt bùi”. Một sự mời mọc ngập ngừng.

      Có thể nói, những bài ca dao than thân trách phận không chỉ là lời than thở vì cuộc đời, cảnh ngộ khổ cực, đắng cay, mà còn là tiếng nói phản kháng, tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội cũ.


Đề 2.
Phân tích bài ca dao “Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai …”

A, Mở bài:

-Nói đôi nét về than phận người phụ nữ xưa trong xã hội phong kiến cũ (Họ là những con người tài năng và xinh đẹp nhưng lại phải chịu những bất hạnh, đau đớn hơn là không có quyền được là chủ cuộc đời của chính mình)

-Giới thiệu về câu ca dao(Trích nguyên câu ca dao cần được phân tích)

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

B, Thân bài:

-Giải thích

+Tấm lụa đào được xem là một trong những thứ hàng xa xỉ thời trước. Nó đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa đào hay những loại lụa nói chung đều có đặc điểm là nhẹ, mềm và rất mát. Và khi mặc vào  thì người đẹp hẳn lên, cha ông ta cũng từng đúc kết ‘Người đẹp vì lụa”.

+Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn “trăm người bán, vạn người mua”, đủ loại người có người sang kẻ hèn, người tốt và có cả những kẻ xấu, không biết sẽ vào tay ai?

+Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại gợi như có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp.

=> Dường như nỗi đau xót của nhân vật trữ tình trong lời than thân trên chính là ở chỗ khi người con gái bước vào cái tuổi đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình thì nỗi băn khoăn lo lắng về thân phận lại ập đến ngay với họ. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận cả một đời người. Sự đối lập giữa hai dòng thơ đã khiến ta thấm thía nỗi đau đó.

-Bài ca dao không chỉ nói lên thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ mà còn là tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của họ.

-Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa dường như đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh.

=> Những người phụ nữ trong xã hội cũ tủi nhục, khổ và cam chịu đó thường than thân trách phận qua những lời ca tiếng hát của mình “Thân em” là các mở đầu quen thuộc trong ca dao xưa là bởi vậy. “Thân em” như đã nói, gợi mở về thân phận nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội cũ, và họ so sánh họ với rất nhiều hình ảnh và các sắc thái khác nhau. Và hình ảnh:

+Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như  khói tỏa vào không gian, như thân phận ngưòi phụ nữ vậy.

+Hai từ “Thân em” như khắc khoải đến nghẹn lời, từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuôi. Người con gái khi được tự giới thiệu về chính mình cũng rụt rè, khiêm nhường thôt lên hai tiếng “thân em”.

-Dải lụa đào mang một dáng vẻ đẹp, nó nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất ngưòi phụ nữ vậy. Hơn nữa lụa đào lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho ngưòi hay khung ảnh. Và phải chăng cũng giống như chính người phụ nữ trong cuộc đời vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công.

=> Dải lụa đào là một hình ảnh mà tác giả dân gian lựa chọn so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:

-Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán ngưòi mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ vào tay ai.

=> Câu hỏi được người phụ nữ buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi ngưòi con gái.

=> Toàn bộ câu ca dao có thể dễ nhận thấy đó là một lời than.

Với cách so sánh, ví von thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc.

C, Kết bài:

-Khẳng định lại một lần nữa bài ca dao như gói ghém lại được những tâm trạng phức tạp của người phụ nữ trong xã hội trước.

+Họ là những người có tài sắc nhưng lại không định đoạn được số phận của mình

-Tác giả dân gian thật tinh tế lựa chọn một hình ảnh đẹp ví von để diễn tả tâm trạng của người phụ nữ xưa.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Cảm nhận về bài ca dao: Thân em như củ ấu gai ...Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

4. Củng cố:

- Nội dung, nghệ thuật của ca dao than thân.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 16/11/2017

Tiết 63-64.

CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA (2)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Đồng cảm với tâm hồn người lao động và yêu quý những sáng của họ. Biết cảm thông với số phận những con người bất hạnh, thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp. Năng lực cảm thụ văn học cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người dân lao động thời xưa và năng lực tư duy phát hiện sự độc đáo trong nghệ thuật của ca dao.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Cảm nhận về bài ca dao: Thân em như củ ấu gai ...Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

Bài làm :

Ca dao – dân ca là những câu hát tâm tình phản ánh sinh động đời sống tình cảm phong phú của nhân dân lao động. Tác giả dân gian bình dân đã gửi gắm vào đó tiếng nói tâm tình chân thành tha thiết, với  đủ mọi cung bậc buồn vui. Có rất nhiều câu ca dao về hình thức và nội dung có những nét giống nhau nhưng mỗi câu lại mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với từng hoàn cảnh và tâm trạng nhân vật khác nhau. Trong số những câu hát tâm tình trong kho tàng văn học dân gian thì không thể thiếu những lời thủ thỉ than thân trách phận, và cụm từ Thân em và nội dung cùng đề cập đến phẩm chất tốt đẹp, cao quý cùng số phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa. Và câu hát chất chứa như đã vọng lên:

Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi nếm thử mà xem !

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

Câu đầu tiên tác giả dân gian đã ví von thật lạ lùng “Thân em” – người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa là củ ấu gai. Củ ấu gai được coi là một hình ảnh quen thuộc của người nông dân Việt Nam nói chung. Tác giả dân gian như đã thẳng thắn so sánh là để thừa thận rằng phụ nữ xưa chưa được coi trọng. Người phụ nữ xưa rất vất vả, vì làm lụng vất vả nên vẻ ngoài trông đen đuốc hơn, làn da trở nên xấu xí hơn.  Nhưng vế sau của câu hát mới thực sự là điều quan trọng “ Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen” . Cặp từ như đã đăng đối “ đen” – “trắng” làm nổi bật câu ca dao về người phụ nữ. Dẫu cho vẻ ngoài có đôi chút xấu xí đi chăng nữa nhưng vẫn mang trong mình tấm lòng son sắc, trái tim chung thủy và một tâm hồn đẹp. Cái lí đã được trình bày một cách rất tường tận. Tiếp sau đó chính là việc cái tình đòi thổ lộ và bộc bạch “Ai ơi, nếm thử mà xem!” đúng là một tiếng gọi, một lời mời – cứng cỏi, táo bạo mà không kém phần tha thiết.

Phải  bộc bạch  kĩ và mời mọc da diết đến nghẹn lời như vậy bởi vì phẩm chất tốt đẹp của họ ít ai biết đến. Sự khẳng định về phẩm giá, giá trị ấy chứa đựng một nỗi ngậm ngùi chua xót cho thân phận người con gái nghèo khổ trong xã hội cũ.

Hậu thuẫn cho nó không phải gì ngoài là niềm tin vào bản thân và cả nỗi khao khát được giao cảm, được yêu thương, được dâng hiến. Câu cuối của bà ca dao như được thốt ra trung hậu, tình cảm và thấm thìa lạ thường. Ai nỡ quay lưng mà bước, ai nỡ “lầm” mãi trước một tiếng nói như thế! Từ chỗ tồn tại như một đối tượng so sánh thuần túy, củ ấu gai bỗng chốc được đồng nhất với chính nhân vật trữ tình, khiến nhân vật trữ tình không ngần ngại dùng tiếng em lần thứ hai ở dòng thơ cuối, bất chấp trước đó “cô” đã dùng từ nếm có vẻ chỉ thích hợp với củ ấu gai thật sự mà thôi. “Em” đã thành một củ ấu gai nhỏ bé, gần gũi trong tay anh, sao anh không thể có một cử chỉ phải chăng, dịu dàng hơn đối với nó chứ? Bài ca dao như đã nhấn mạnh đến giá trị đích thực của người con gái dịu hiền. Người phụ nữ nông dân tuy vất vả, lam lũ quanh năm và không ít lần họ đã tự so sánh “Thân em như củ ấu gai”. Cái củ ấu gai góc đến nhọn hoắt lại đen đủi sống dưới bùn sâu, chẳng mấy ai để ý tới, dẫu rằng bên trong nó vừa trắng, vừa ngọt, vừa bùi chứ không phải vì bên ngoài nó gai góc xấu xí mà bên trong nó cũng vậy.

Trong cuộc sống cũng vậy, để có thể giúp đời hiểu mình hơn, người ta có khi phải đứng ra tự quảng cáo. Thật là một điều bất đắc dĩ, nhất là đối với một cô gái. Nhưng biết làm sao được, ý thức về phẩm giá và sự tự trọng có khi bắt người ta phải làm vậy! Có thể tưởng tượng ra một hoàn cảnh diễn xướng gần với các dữ kiện được thông báo trong bài ca dao như sau (tất nhiên, bạn hoàn toàn có thể hình dung ra những hoàn cảnh diễn xướng khác cô gái – nhật vật trữ tình – tác giả đã không gặp nhiều may mắn trong việc thu hút sự chú ý của “đối tác” trong tình yêu, bởi vậy, cô phải cất lời để tự bảo vệ và để mời.

Bài ca dao còn như nói lên quyền sống của người phụ nữ xưa kia, mà trước hết là quyền tự do hoàn toàn bị phủ nhận. Đó chính là nguồn gốc của mọi đau khổ, ngang trái mà họ phải chịu đựng trong suốt cuộc đời. Một lời than, một tiếng nói khẳng định mình, một bài học về cách thẩm định các giá trị, một nhu cầu và khát vọng yêu đương đã được thể hiện súc tích trong bài ca dao gồm bốn câu ngắn ngủi ấy.

Đề 2.

Cảm nhận về bài ca dao :

Trèo lên cây khế nửa ngày,

Ai làm chua xót lòng này, khế ơi !

Mặt trăng sánh với mặt trời,

Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.

Mình ơi! Có nhớ ta chăng?

Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.

Bài làm 1 :

Đây là bài ca dao được làm theo "thể hứng". Đừng quá tin có một sự việc là nhân vật trữ tình trèo lên cây khế nửa ngày. Không, không thể có chuyện đó. Ta đã gặp rất nhiều bài ca dao có mấy câu khởi đầu chứa đựng những chi tiết không đâu và phi lí như vậy. Tuy nhiên, nếu quen với đặc điểm thi pháp này, người tiếp nhận chỉ còn lưu tâm đến cái lõi của thông báo nghệ thuật nữa mà thôi.

Ở bài ta đang tìm hiểu, cái đáng nói trong hai dòng thơ đầu là mối tương quan giữa cái chua của quả khế và cái chua xót của lòng người. Hình ảnh cây khế, quả khế xuất hiện chỉ để làm vật chất hóa một trạng thái tình cảm mà sự định danh nó phải mượn đến một từ vốn cũng được dùng để định danh cho cái vị đặc trưng của quả khế. Điều đáng nói khác là trong lòng nhân vật trữ tình đang chất chứa tám sự, và tâm sự đó cần phải được giải tỏa, thổ lộ. Thế là bỗng nhiên khế trở thành một đối tượng chuyện trò vô cùng thích hợp, có thể giúp nhân vật trữ tình tự khơi sâu mạch cảm xúc của mình. Cái vô lí của những hình ảnh, chi tiết mở đầu hóa ra cũng không hoàn toàn là vô lí, xét trong cấu trúc tổng thể của bài ca dao.

Ai là người đang thốt lên những lời trong bài ca dao này vậy? Người đó có thể là con trai, cũng có thể là con gái, nhưng khả năng lớn hơn là con gái, bởi thông thường, sự than thở trong chuyện tình cảm hay xuất phát từ nữ giới - đối tượng vẫn chịu nhiều lép vế, thua thiệt và bị động trong cuộc đời. Qua những gì đã được nói ra, đặc biệt qua các từ tạm xác định là then chốt như sánh, nhớ, chờ và qua các hình ảnh dễ gợi lên ấn tượng về sự xa cách trong không gian hay sự cách trở nói chung như sao Hôm, sao Mai, sao Vượt, ta có thể hình dung nhân vật trữ tình đang gặp trắc trở trong đường tình và đang tha thiết nhớ bạn, tha thiết ước mong một sự sum vầy. Lí do của sự cách trở không được nói ra một cách trực tiếp, rõ ràng. Chắc chắn không xuất phát từ phía chủ quan người đang tâm sự, bởi như ta có thể thấy, tình cảm của người này đối với bạn vẫn còn vẹn nguyên, thậm chí còn phát triển nồng nàn hơn qua thời gian. Có lẽ cần phải chú ý nhiều hơn tới từ sánh vốn được dùng tới hai lần trong hai dòng thơ kề nhau. Sánh gợi lên sự xứng hợp, như sự vừa đôi phải lứa, hay nói cách khác là sự đẹp đôi. Mặt trăng và mặt trời, nếu theo một góc nhìn nào đó, thì xứng với nhau quá còn gì ! Chẳng thế mà dân gian vẫn hìnhdung chúng như một cặp không hề cọc cạch là ông trăng và bà trời. Sao Hôm và sao Mai nữa, đúng là chúng sánh chằng chằng với nhau, như sự hô ứng nhịp nhàng giữa sáng và chiều, giữa đông và tây trong thời gian và trong không gian. Nhân vật trữ tình đã không ví von một cách tường minh chuyện mình với chuyện trăng sao, trời đất, nhưng ta hiểu trong sâu xa, người đó đã nhìn vấn đề đúng như vậy. Chưa biết việc tự nhìn nhận như thế có chủ quan không, nhưng căn cứ vào những gì mà tình cảm người đó thổ lộ, ta có thể tin vào một sự xứng đôi - một sự xứng đôi dựa trên tình cảm chân thật đáng được trân trọng và bảo vệ. Lại cũng từ đây, người tiếp nhận bài ca dao có thể lờ mờ đoán hiểu ra nguyên cớ vì sao sự xứng đôi đó cứ mãi tồn tại như một mong ước, một cái gì đó không thật, không được hiện thực hóa giữa cõi đòi, khiến nhân vật trữ tình cứ không ngừng khắc khoải và chua xót. Có thể vì cha mẹ, vì thành kiến xã hội, cũng có thể vì một sự nghi ngại hay không dứt khoát từ phía bạn tình mà chuyện kết đôi đã không thành, dù theo sự mách bảo bên trong của nhân vật trữ tình, quan hệ tương xứng giữa hai người tưởng không còn gì phải bàn cãi nữa. Khi thốt lên câu "Mình ơi! Có nhớ ta chăng", nhân vật trữ tình đã quên người bạn tâm sự đầu tiên là cây khếđể chỉ còn biết đến người mình yêu đang ở một chốn nào đó giữa cõi người. Một tiếng kêu kết tụ cả nỗi lo âu, niềm hi vọng, sự nhắc nhở và cả chút trách móc đầy thương yêu, thông cảm. Một tiếng kêu thúc đẩy mối liên tưởng về hình ảnh "sao Vượt chờ trăng giữa trời" làm sáng cả không gian thơ, làm sáng cả một tấm tình thủy chung son sắt.

Có cả một câu chuyện dài chứa đựng trong bài ca dao ngắn này. Tâm sự, nỗi niềm được thổ lộ ở đây đạt tới giá trị kết tinh cao độ, có thể khơi lên nhiều suy nghĩ, cảm xúc về phận người và về những bi kịch trong tình yêu đôi lứa. Đọc bài ca dao, ta không thể quên được hình ảnh "sao vượt chờ trăng" - một hình ảnh đã vĩnh cửu hóa cái đẹp của sự kiên tâm đợi chờ trong hi vọng và đau đớn.

Bài làm 2.

Trong ca dao có một số lượng khá lớn những bài ca mở đầu bằng công thức “Trèo lên”. Như “Trèo lên cây bưởi hái hoa…”, “Trèo lên cây gạo cao cao…”, “Trèo lên trái núi Thiên Thai…”,… Các bài ca dao mở đầu theo kiểu này thường gây nên không ít cách hiểu khác nhau, tạo nên những tranh luận thú vị trong cảm hiểu thơ ca dân tộc. Bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa” là một ví dụ, làm tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu và độc giả yêu thích thơ ca. Thơ ca tồn tại sâu đậm trong tâm hồn con người phải chăng cũng có phần bởi sự mơ hồ không dễ giải thích bằng lời ấy:
Trèo lên cây khế nửa ngày,
Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!
Hỏi khế rằng ai đã làm chua xót lòng khế thì quả là một câu hỏi tu từ quá đỗi tài tình. Không ít người thấy câu này khó hiểu! Phải chăng theo kinh nghiệm dân gian, trèo hái khế nói riêng, hái quả nói chung giữa nắng trưa quá mái thì quả sẽ bị chua hơn? Phương pháp nghệ thuật nổi bật ở hai câu mở đầu này là phương pháp nhân cách hóa. Nhân cách hóa có hai hình thức: một là gọi những vật vô tri vô giác mà trò chuyện, bộc bạch với chúng như với những người bạn; hai là gửi gắm vào những sự vật vô tri vô giác ấy những hành động, cảm xúc của con người khiến thế giới vật thể vô hồn trở nên sống động, tràn ngập cảm xúc như con người. Hai câu thơ này đã sử dụng tài tình cả hai hình thức ấy. Lựa chọn khế để hỏi vị chua là một sự lựa chọn tài tình bởi trong lòng khế (trừ khế ngọt) chẳng bao giờ hết chứa đựng vị chua. Hai câu đầu nghe sao da diết, xót xa. Lối nói ẩn dụ, kín đáo, bóng bẩy càng làm cho người nghe cảm nhận được nỗi lòng đau đớn khôn nguôi của kẻ phải chịu lỡ dở duyên tình. Ở đây ẩn chứa sự tương đồng kín đáo: khế chua – lòng người chua xót. Đại từ phiếm chỉ “ai” và câu hỏi tu từ “ai làm chua xót” mang ý nghĩa khái quát và mở ra nhiều trường liên tưởng, giống như câu hỏi hờn giận duyên phận trong một bài ca dao khác “Ai làm cho bướm lìa hoa”. Ai có thể là hoàn cảnh khách quan, là xã hội, là người ngoài cuộc, cũng có thể là người trong cuộc tự chia xa. Chỉ biết rằng nhân vật trữ tình (ở đây có thể nghiêng về cách hiểu là chàng trai giống như chàng trai trong bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa”) dù duyên tình lỡ dở nhưng vẫn hoài niệm, ngóng vọng, thương nhớ khôn nguôi “người ấy” qua sự bộc bạch nỗi lòng ở những câu tiếp theo:

Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.
Tác giả đã lựa chọn hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng cho con người, tình người. Các hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ biểu tượng của sự vĩnh cửu, tương ứng với nhau đồng thời cũng biểu tượng của sự chia xa vô vọng. Các cặp hình ảnh đối sánh: mặt trăng – mặt trời, sao Hôm – sao Mai như em và anh luôn tương xứng dẩu phải xa cách. Hai lần từ “sánh với” được lặp lại và kèm thêm tính từ “chằng chằng” khẳng định dù phải cách xa nhưng hai ta vẫn đẹp đôi vừa lứa. Mặt trời lặn, mặt trăng lên là quy luật tự nhiên bất biến; sao Hôm và sao Mai vốn chỉ là một, đó là sao Kim (khi mọc vào buổi sáng thì gọi là sao Mai, mọc vào buổi chiều thì gọi là sao Hôm). Lấy hình ảnh thiên nhiên vĩnh cửu, tương xứng trong vũ trụ dẫu đối lập về thời gian xuất hiện nhưng chúng luôn là sự hồi âm, phản chiếu của nhau.

Câu kết trong ca dao giao duyên thường là lúc nỗi lòng được bộc lộ trực tiếp hơn. Dường như nhân vật trữ tình không còn kìm nén lòng mình được nữa: 
Mình ơi! Có nhớ ta chăng?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.
Đại từ nhân xưng mình – ta quen thuộc trong ca dao đã xuất hiện trực tiếp. Nỗi nhớ không kìm nén được đã bật tuôn trào theo logic tình cảm rất tự nhiên. Hỏi người (mình) có nhớ ta chăng và tiếp theo là lời khẳng định tình yêu son sắt của ta dẫu duyên kiếp không thành – “Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”. Sao Vượt cũng là sao Hôm hay sao Mai. Sao Vượt mọc rất sớm từ lúc chiều hôm. Khi sao Vượt lên đến đỉnh của bầu trời thì trăng mới mọc, vậy mà sao Vượt vẫn “chằng chằng” ngóng đợi trăng lên. Sự chờ đợi, ngóng vọng dẫu cô đơn nhưng kiên định biết bao. Bài ca dao nói về nỗi xót đau lỡ dở của kẻ thất tình mà sao người nghe vẫn thấy ấm áp tình người. Sự ấm áp tỏa ra từ niềm tin yêu vào sự thủy chung son sắt của tình yêu lứa đôi, của tình người cao đẹp.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Cảm nhận bài ca dao " Ước gì sông rộng một gang ; Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi"

4. Củng cố:

- Nội dung, nghệ thuật của ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa. Vẻ đẹp tâm hồn người bình dân xưa.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 18/11/2017

Tiết 65-66.

CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA (3)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Đồng cảm với tâm hồn người lao động và yêu quý những sáng của họ. Biết cảm thông với số phận những con người bất hạnh, thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp. Năng lực cảm thụ văn học cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người dân lao động thời xưa và năng lực tư duy phát hiện sự độc đáo trong nghệ thuật của ca dao.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Cảm nhận bài ca dao " Ước gì sông rộng một gang ; Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi"

Bài làm 1 :

Bài ca là lời của cô gái, bày tỏ một ước mơ trong tình yêu đôi lứa. Chỉ có hai câu lục bát mà đủ diễn tả một tình yêu thiết tha, mãnh liệt.

Bài ca mở đầu bằng hình ảnh con sông. Con sông cách trở lứa đôi nên em và chàng khó gặp gỡ. Nhưng có hề gì, “yêu nhau mấy núi sông cũng trèo”- Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua"! Tuy nhiên, “lội” cũng là một sự khó khăn rồi: nếu “bắc cầu” thì lứa đôi gặp gỡ sẽ dễ dàng hơn. Cho nên cô gái “ước gì sông rộng một gang”. Sông mà rộng chỉ một gang, cách nói cường điệu tạo nên một sự vô lí thú vị. Vô lí cho nên mới phải “ước”. Sự vô lí trong điều mơ ước diễn tả điều có lí của tình yêu. Sông chỉ một gang thì cô gái mới có thể “bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”.

 

     Cây cầu - dải yếm là một hình tượng đặc sắc của bài ca. Cây cầu là một trong những mô-típ nghệ thuật quen thuộc và đặc sắc của ca dao, gắn chặt với đời sống tình cảm phong phú, mãnh liệt nhưng cũng hết sức tế nhị, duyên dáng của người bình dân Việt Nam. Mô-típ này xuất phát từ cuộc sống dân dã của người bình dân. Làng quê Việt Nam nơi nào mà chẳng có sông rạch, chẳng có một chiếc cầu. cầu là phương tiện giao thông, cầu cũng là không gian trữ tình, là nơi gặp gỡ, hò hẹn của trai gái. cầu đi vào ca dao, trở thành biểu tượng của tình yêu, ước mơ của tình yêu. Người bình dân thổ lộ tình yêu của mình trong hình ảnh những chiếc cầu bắc qua sông. Không phải là cầu tre, cầu gỗ, những chiếc cầu này độc đáo hơn nhiều. Khi thì là cành hồng.

 

Hai ta cách một con sông, 

Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.

 

Khi thì là cành trầm: 

Cách nhau có một con đầm,

Muốn sang anh bẻ cành trầm cho sang. 

Cành trầm lá dọc lá ngang, 

Đố người bên ấy bước sang cành trầm.

 

Lạ hơn nữa là cái cầu - mồng tơi:

Gần đây mà chẳng sang chơi,

Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu. 

Sợ rằng chàng chả đi cầu, 

Cho tốn công thợ, cho sầu lòng em.

 

     Đến bài ca này, cái cầu - dải yếm lại càng lạ hơn nữa. Đây mới đúng là cái cầu của người con gái chủ động bắc cho người mình yêu, nó vượt qua mọi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến ngày xưa. Nó táo bạo, mãnh liệt, và cũng thật trữ tình, ý nhị, bởi nó là cái dải yếm, cái vật mềm mại luôn quấn quýt bên thân hình người con gái, trở thành biểu tượng riêng của người con gái. Người con gái muốn dùng cái vật thân thiết, gần gũi nhất của mình để bắc cầu mời mọc người mình yêu. Cành hồng, cành trầm, ngọn mồng tơi còn là những cái bên ngoài, còn dải yếm là cái bên trong. Cho nên cái cầu - dải yểm mới thật chân tình, táo bạo, và trở thành cái cầu tình yêu đẹp nhất trong ca dao. Cái dải yếm bình thường đi vào bài ca bỗng trở thành đầy chất thơ của tình yêu.

 

      Bài ca giãi bày ước mơ tha thiết và mãnh liệt của người con gái trong tình yêu, qua đó thể hiện vẻ đẹp tình yêu của người lao động: bình dị, mãnh liệt nhưng cũng hết sức tế nhị, duyên dáng.

Bài làm 2.

Sinh ra trong một đất nước nhiều sông ngòi, kênh rạch, ca dao Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng theo suy nghĩ, tư duy của con người ở vùng sông nước, trong nội dung cũng như trong hình thức nghệ thuật. Những hình ảnh và chi tiết nghệ thuật có liên quan với sông, cầu, thuyền, bến... xuất hiện khá liên tục trong ca dao của nhiều thời và nhiều vùng khác nhau trong cả nước, từ Bắc chí Nam. Dù trong những lời ca quan họ Bắc Ninh hay trong lời ca hát ví ở Nghệ An, hò Huế, hò giã gạo ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, hoặc trong hò Đồng Tháp, hò cấy Gò Công - Nam Bộ, chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy những hình ảnh và chi tiết nghệ thuật nói trên. Ví dụ:

Yêu nhau cởi áo cho nhau

Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.

 

Gió bay cầu thấp cầu cao

Gió bay cầu nào con chỉ mẹ coi?

 

Qua cầu ghé nón trông cầu

Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu.

 

Ca dao không chỉ nói đến "cầu tre", "cầu ván", "cầu đá", "cầu xây"... là những loại cầu có thực và phổ biến trong cả nước, mà ca dao còn sáng tạo ra cả những loại cầu không có hoặc chưa có trong thực tế như "cầu mồng tơi", "cầu sợi chỉ", "cầu cành hồng", "cầu dải yếm”...

Đây là chiếc cầu "bắc" bằng sợi chỉ ở trong ca dao Nam Bộ:

Sông cách sông, thủy cách thủy

Em xe sợi chỉ, em bắc cây cầu

Để cho anh sang mà giảm mối sầu tương tư.

 

Gần nhà mà chẳng sang chơi

Để anh bắc ngọn mồng tơi làm cầu.

 

Đôi ta cách một con sông

Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.

Nhưng hay nhất, đẹp nhất, nên thơ và gợi cảm nhất vẫn là chiếc "cầu dải yếm" ở trong câu ca dao từ lâu đã trở thành của chung tất cả mọi miền đất nước:

Ước gì sông hẹp một gang,

Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi.

Từ "hẹp" ở vế thứ nhất, có dị bản ghi thành từ "rộng". Nhưng khi đã có một con số, đồng thời cũng là một hình ảnh xác định, cụ thể "một gang" cũng không làm cho bề ngang của dòng sông thay đổi (nghĩa là ở đây từ "rộng" hay từ "hẹp" đều chỉ có một nghĩa, một nội dung thống nhất, là bề ngang của con sông mà thôi).

Người kiến trúc sư vô danh và thiên tài đã thiết kế nên chiếc cầu dải yếm độc đáo này là một cô gái Việt Nam không rõ làng nào, huyện nào, tỉnh nào, nhưng chắc là đã sống cách đây vài thế kỉ. Khi nghĩ ra bản thiết kế này, chắc tác giả đang ở trong độ tuổi mười tám đôi mươi, tình yêu vừa chớm nở, sức tưởng tượng dồi dào phong phú. Chiếc cầu dải yếm không chỉ tồn tại âm thầm trong trí tưởng tượng của tác giả. Nó đã được công bố thành lời trong ca dao mà người đầu tiên được trực tiếp nghe tác giả công bố cũng chính là người yêu của người nữ "kiến trúc sư" thiên tài này. Hay nói đúng hơn, chiếc cầu này được nghĩ ra để "bắc" riêng cho một người "sang chơi". Và nhờ có tình yêu với người ấy mà tác giả mới thiết kế được chiếc cầu tuyệt diệu này.

Khi yêu cũng như khi say, con người thường thoát li những điều kiện thực tế và suy nghĩ một cách tự do, hồn nhiên theo khát vọng cháy bỏng của trái tim mình.

Đề 2.

Phân tích bài ca dao “Khăn thương nhớ ai”.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn rơi xuống đất.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn vắt lên vai.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn chùi nước mắt.

Đèn thương nhớ ai,

Mà đèn không tắt ,

Mắt thương nhớ ai,

Mắt ngủ không yên.

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Bài thơ được viết theo thể bốn chữ và kết thúc bằng hai câu lục bát rất phù hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái phức tạp, tinh tế của tâm hồn. Nhân vật trữ tình trong bài ca dao là cô gái đang sống trong tâm trạng thương nhớ người yêu khôn nguôi. Những lo phiền chất chứa trong lòng cũng xuất phát từ niềm thương nhớ ấy.

Thương nhớ vốn là thứ tình cảm khó hình dung, nhất là thương nhớ trong tình yêu. Vậy mà ở bài này, nó lại được diễn tả một cách cụ thể, tinh tế và gợi cảm nhờ cách nói bằng những hình ảnh tượng trưng mang tính nghệ thuật cao. Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu đã được gửi gắm vào các sự vật như cái khăn, cái đèn, đôi mắt, đặc biệt là hình ảnh cái khăn.

Xưa kia, cái khăn thường là ki vật để trao duyên, gợi nhớ đến người yêu đang xa cách:

Gửi khăn, gửi ảo, gửi lời,

Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa.

Hay

Nhớ khi khăn mở, trầu trao,

Miệng thì cười nụ biết bao nhiêu tình.

Các tác giả dân gian mượn ngoại vật là cái khăn, cái đèn đã được nhân hoá và con mắt là hoán dụ để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình. Rõ ràng mục đích của nhà thơ bình dân là biến cái khăn, cái đèn, đôi mầt thành biểu tượng cho nỗi niềm thương nhớ của người con gái đang yêu.

Sáu câu thơ cấu trúc theo lối vắt dòng láy lại sáu lần từ Khăn ở vị trí đầu câu và láy lại ba lần câu hỏi thương nhớ ai thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ lại trào dâng. Yêu và nhớ là hai mặt của tình yêu, yêu say đắm thì nhớ thiết tha. Đó là nỗi nhớ có không gian trải ra trên nhiều chiều: Khăn rơi xuống đất, Khăn vắt lên vai, Khăn chùi nước mắt và biểu hiện trong mọi suy nghĩ, hành động, khiến cô gái bồn chồn, khắc khoải như đứng đống lửa, như ngồi đống than và rơi nước mắt.

Sáu câu thơ hỏi khăn gồm 24 chữ, thì đã có đến 16 thanh bằng mà hầu hết là thanh không, gợi nỗi thương nhớ người yêu đến cháy lòng của cô gái. Tuy vậy, cô vẫn biết kìm nén dòng cảm xúc đang dâng trào trong tâm hồn.

Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và trải dài theo thời gian. Nỗi nhớ được tiếp tục gửi vào ngọn đèn: Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Chừng nào ngọn lửa tình yêu vẫn cháy sáng trong trái tim người con gái thì ngọn đèn kia vẫn sáng thâu đêm. Đèn không tắt hay chính con người đang thao thức thâu đêm trong nỗi nhớ thương đằng đẵng ? Nếu trên kia, cái khăn đã biết giãi bày, thì ở đây, ngọn đèn cũng biết thổ lộ. Nó nói với chúng ta nhiều điều không có trong lời ca…

Cuối cùng, cô gái hỏi chính đôi mất của mình. Dù kín đáo, gợi cảm bao nhiêu chăng nữa thì cái khăn và ngọn đèn cũng chỉ là những hình ảnh được mượn làm cái cớ để gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Đến đây, dường như không kìm lòng được nữa, cô gái đã hỏi trực tiếp chính mình: Mất thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. Nỗi nhớ thương nặng trĩu, cho nên: Đêm nằm lưng chẳng tới giường. Cứ nhắm mắt vào, hình ảnh người thương lại hiện ra, ngủ làm sao cho được! Ở trên là đèn không tắt thì ở đây Mắt ngủ không yên. Hình tượng thơ thật hợp lí, nhất quán và tự nhiên như tình yêu và niềm thương nỗi nhớ của cô gái.

Nếu tâm trạng cô gái trong những câu thơ bốn chữ được diễn tả bằng hình thức gián tiếp thì đến hai câu lục bát cuối cùng nó đã được giãi bày trực tiếp, ở trên, nỗi nhớ còn được che giấu ít nhiều bằng những hình ảnh có tính chất tượng trưng thì đến đây trái tim đã tự thốt lên Iời.

Tâm trạng lo phiền của cô gái cũng xuất phát từ cội nguồn thương nhớ. Cô Lo vì một nỗi không yên một bề. Một nỗi, một bề mà hoá thành rất nhiểu vấn vương, thao thức. Cô gái lo cho chàng trai hay lo rằng chàng trai không yêu thương mình tha thiết như mình đã yêu thương chàng ? Đây cũng là tâm trạng phổ biến của những cô gái đang yêu.

Nỗi nhớ được nói đến dồn dập trong 10 câu thơ 4 chữ, chỉ có lời hỏi mả không có lời đáp. Nhưng câu trả lời đã được giản tiếp khẳng định trong năm điệp khúc thương nhớ ai vang mãi không dứt như một niềm khắc khoải để rồi cuối cùng trào ra thành một niềm lo âu thực sự cho hạnh phúc lứa đôi:

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Tình yêu dù trong sáng, mãnh liệt, lãng mạn bay bổng tới đâu chăng nữa cũng gắn bó với đời thường mà đời thường vốn lại nhiều dâu bể. Bởi thế mà Cô gái nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận đôi lứa không yên một bề. Vì sao vậy? Phải đặt bài ca này vào cuộc sống của người phụ nữ xưa và trong hệ thống của những bài ca than thân về hôn nhân và gia đình thì ta mới thấy hết ý nghĩa của hai câu kết, hạnh phúc lứa đôi của họ thường bấp bênh vì tình yêu tha thiết nhiều khi không dẫn đến hôn nhân. Mặc dầu vậy, bài ca dao vẫn là tiếng hát của một trái tim khao khát yêu thương.. Điều đó khiến cho nỗi nhớ này không hề bi luỵ mà như một nét đẹp trong tâm hồn đáng quý của các cô gái Việt ở làng quê xưa

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Phân tích bài ca dao sau :

Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.

4. Củng cố:

- Nội dung, nghệ thuật của ca dao yêu thương tình nghĩa. Vẻ đẹp tâm hồn của người bình dân xưa.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 20/11/2017

Tiết 67-68.

CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA (4)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Đồng cảm với tâm hồn người lao động và yêu quý những sáng của họ. Biết cảm thông với số phận những con người bất hạnh, thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp. Năng lực cảm thụ văn học cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người dân lao động thời xưa và năng lực tư duy phát hiện sự độc đáo trong nghệ thuật của ca dao.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Phân tích bài ca dao sau :

Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.

Bài làm :

Trong những câu hát ca dao- dân ca dường như tình yêu nam nữ là đề tài có sức hấp dẫn kì lạ. Ca dao – dân ca khi thì ẩn giấu những nỗi niềm sâu xa, lắng đọng, khi thì lại dâng trào những cảm xúc dạt dào, mạnh mẽ của tình yêu nam nữ. Thách thức của thời gian và mọi trở ngại trên đường đời chỉ làm cho tình yêu thêm phần mãnh liệt, vững bền thêm mà thôi. Bài ca dao thật đặc sắc  “Muối ba năm…” đã diễn tả phần nào tình nghĩa vợ chồng thuỷ chung trong xã hội phong kiến ngày nào.

Muối ba năm muối đang còn mặn,

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay.

Đôi ta nghĩa nặng tình đầy,

Có xa nhau đi nữa, cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.

Thoạt đầu đôi trai gái yêu nhau thường lấy trăng, hoa, sông, núi… làm cái cớ để tỏ tình, để hứa hẹn, thề thốt. Trong những thời điểm mơ mộng, huyền diệu ấy, tình yêu hiện ra thật lãng mạn, đẹp đẽ, và dường như tâm lí của những kẻ đang yêu là Nhất nhật bất kiến như tam thu hề, một ngày không gặp nhau dài bằng ba thu, nhưng khi đã nên vợ nên chổng thì tình yêu chuyển thành tình thương, tình nghĩa, tức là đi vào chiều sâu của tình cảm. Câu ca dao thật tinh tế khi đã mượn các hình ảnh gần gũi, quẹn thuộc để miêu tả tình nghĩa vợ chồng:

Muối ba năm muối đang còn mặn,

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay.

Hình tượng thơ ở đây không hề cầu kì, cũng không bóng bẩy mà đơn sơ, gần gũi. Muối và gừng là những gia vị thường dùng trong bữa cơm hằng ngày của người bình dân. Hơn thế, muối và gừng còn được biết đến là những vị thuốc đắc dụng trong lúc ốm đau. Đã được các tác giả dân gian tinh tế đưa vào văn chương, muối và gừng đã mang ý nghĩa tượng trưng cho tình nghĩạ vợ chồng đậm đà, sâu nặng.

Có thể nói trong hai câu đầu của bài ca dao nhấn mạnh bản chất khó thay đổi bởi thời gian của muối và gừng. Những số từ như ba năm, chín tháng không phải là số từ cụ thể mà nó hàm ý chỉ thời gian lâu dài. Có lẽ thời gian lại chính là thử thách nghiệt ngã nhất, là thước đo chính xác nhất cho phẩm chất và giá trị của sự vật, của con người.

Muối và gừng đều là những sản phẩm đo chính tay người dân làm ra và gắn bó đời đời kiếp kiếp với họ. Muối chính là sự kết tinh của nước biển ngưng đọng lại, màu trắng, hạt nhỏ, có vị mặn. Muối rất mặt thường dùng trong bữa ăn của mọi nhà, mọi người. Cái dư vị mặn mòi của muối đã được tác giả dân gian nhấn mạnh trong cụm từ muối ba năm. Trải qua biết bao năm tháng, hạt muối càng mặn mà thêm, cũng giống như thời gian trôi qua càng làm đậm đà hơn tình chồng nghĩa vợ.

Gừng được biết đến là loại cây thường được trồng ở trong vườn, ngoài đồng. Vị cay nồng và thơm của gừng làm nóng ran từ miệng vào tới gan ruột, khiến ta có cảm giác tăng thêm nhiệt huyết, sức lực. Độ cay của gừng trải qua chín tháng được ngầm so sánh với mức độ thắm thiết của tình cảm vợ chồng. Trong gian nan, hay trong vất vả, tình nghĩa vợ chồng càng thêm sâu nặng.

Để làm nổi bật hai hình ảnh muối ba năm với gừng chín tháng, các tác giả dân gian đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Có thể nói sự cân đối nhịp nhàng của hai câu thơ bảy chữ kết hợp với điệp từ muối và gừng được lặp lại hai lần trong câu thơ, có sự bổ trợ của cụm từ chỉ trạng thái đang còn mặn, hãy còn cay, đặc tả tình nghĩa vợ chồng đằm thắm, nồng nàn.

Gừng cay và muối mặn như đã tượng trưng thật nhất và hay nhất cho tình nghĩa của những cặp vợ chổng nghèo cùng nhau chung lưng đấu cật, lên thác xuống ghềnh, lên rừng xuống biển. Chén cơm sẻ nửa, hạt muối chia đôi. Qua gian nan, cơ cực, tình nghĩa vợ chồng gắn bó càng thêm sâu sắc:

Đôi ta nghĩa nặng tình đày

Câu thơ sáu chữ dễ nhận thấy có âm điệu ngọt ngào, sâu lắng cùng với các từ ngữ đan xen hài hoà, thể hiện sự khăng khít của cặp vợ chồng rất đỗi thương nhau. Từ Đôi ta nói lên sự khăng khít, hoà hợp. “Đôi ta” khác với “hai ta” vì hai ta chưa thể là một. Và để tiếp tục khắc sâu thêm cho ý nghĩa của từ “Đôi ta”, tác giả cụ thể hoá bằng hình ảnh nghĩa nặng tình dày. Nghĩa đặt trước tình, quấn quyện vào nhau, không có gì đo lường được tình nghĩa vợ chồng dành cho nhau. Dường như thành ngữ “Nghĩa nặng tình dày” nó như một hòn đá tảng thật nặng trong đời sống vợ chồng, không sức mạnh gì xô đẩy, di chuyển được.

Phải khẳng định một điều là không phải lúc nào tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng cũng thuận buồm xuôi gió. Có thể nói trong cuộc sống chung, vợ chổng cũng phải “lên thác xuống ghềnh”, “ba chim bảy nổi chín lênh đênh”, nghĩa là bên cạnh cái ngọt ngào của tình yêu, họ cũng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống tình đời thường cần phải vượt qua.

Câu thơ “Có xa nhau đi nữâ cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa’ như đột ngột kéo dài từ sáu chữ thành mười ba chữ, không phải là không có lí do. Chỉ với độ dài của câu ca dao mà như đã phần nàọ bộc lộ sự băn khoăn, bức xúc trong tâm trạng của người vợ hoặc người chồng, ở đỉnh cao của tình cảm vợ chồng, trong những lúc thời điểm hạnh phúc nhất, đôi khi người vợ hoặc người chồng tự nhiên phân vân, lo lắng cho tương lai, cho những ngày tiếp theo, khi mà gian khó thì liệu vợ chồng có giữ được gừng mãi cay và muối mãi mặn, nghĩa nặng tình dày mãi không?

Và quả thực cụm từ “có xa nhau đi nữa” đã diễn tả tâm trạng có thật của một trong hai người, nhưng nó chĩ là một dao động thoáng qua, một sự lo xa cần thiết ở những người vợ, ở cả những người chồng biết lo lắng, chăm sóc gìn giữ cho hạnh phúc gia đình bền chặt.

Nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã tự đặt ra giả thiết “Có xa nhau đi nữa’ và cũng tự trả lời “ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”. Tại sao họ, những đôi vợ chồng không nói một trăm năm mà lại là ba vạn sáu ngàn ngày ? Cách nói như dằn từng tiếng một, như đã nhấn mạnh quyết tâm sắt đá, khắc cốt ghi xương lời thề gìn giữ cuộc sống vợ chồng cho vuông tròn đến đầu bạc răng long.

Cho dù không sử dụng một từ so sánh nào nhưng ý so sánh trong bài ca dao vẫn khá rõ ràng. Và cũng giống như muối mặn, gừng cay thì tình nghĩa của đôi ta trải qua năm tháng càng thêm nặng, thêm dày, không gì có thể làm cho phai nhạt. Điều thú vị ở đây là cách nói vòng. Ba vạn sáu ngàn ngày tức là một trăm năm. Lấy vợ lấy chồng, ai cũng ao ước được trăm năm hạnh phúc bên nhau. Vậy thì cái chuyện xa nhau dẫu có thể xảy ra thì cũng phải sau ba vạn sáu ngàn ngày, khi mà cả hai đều đã sống trọn vạn kiếp người.

Để ý một chút, ta sẽ thấy cấu trúc ngữ pháp của câu cuối cùng khá lạ. Hai chữ xa đặt ở đầu và cuối câu, ở giữa là thành ngữ chỉ thời gian dài đằng đẵng. Có thể nói trong câu ca dao quan hệ ngữ nghĩa là quan hệ giả thiết – kết quả được thể hiện bằng sự kết hợp giữa nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nói vòng, cường điệu để nhấn mạnh ý cẩn khẳng định.

Chính sức mạnh của tình yêu nam nữ không trở lực nào ngăn cản được. Tình cảm vợ chồng như keo sơn lại càng không có thế lực nào phá vỡ được. Đó là những thông điệp mà bài ca dao trên muốn gửi đến mọi người sau. Tình nghĩa vợ chồng rất gắn bó thuỷ chung như được xây dựng trên nền tảng là cuộc sống lao động vất vả, cần lao của những người cùng cảnh ngộ:

Tay bưng chén muối đĩa gừng,

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau!

Bài ca dao thật hay, và ấn tượng trên mang đậm phong cách của ca dao dân ca vùng Nghệ – Tĩnh. Chúng ta hãy thử một lần hình dung vào một sớm mai hồng hay một đêm trăng thanh, trên dòng sông Lam, con thuyền thong thả trôi xuôi, mái chèo khỏa nước.Trong không gian mênh mông, bao la bỗng ngân lên một giọng hò khoan nhặt, ca ngợi tình nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt. Chắc hẳn rằng những sợi dây đàn trong tâm hồn của mỗi chúng ta sẽ rung lên, rung lên mãi để cùng hòa điệu. Bốn câu ca dao trên ngắn gọn vừa miêu tả hiện thực vừa là khát khao hạnh phúc lâu bền của người bình dân tự ngàn xưa.

Đề 2.

Phân tích câu ca dao:

“Thân em như con hạc đầu đình

Muốn bay không cất nổi mình mà bay”

Bài làm :

Có thể nói trong kho tàng ca dao dân của nước ta thì hình ảnh con cò, con hạc là một hình ảnh rất hay và đi vào trong những câu hát thật dung dị và gần gũi. Trong đó thì hình ảnh con hạc tuy chiếm số lượng ít hơn hình ảnh con cò, nhưng những bài ca dao đó lại rất đặc sắc. Ta vẫn còn mãi nhớ đến câu ca dao:

Thân em như con hạc đầu đình

Muốn bay không cất nổi mình mà bay

Tác giả dân gian đã thật sự tinh tế khi chọn lựa được một hình ảnh so sánh có khả năng gợi cảm và liên tưởng rất cao như hình ảnh con hạc. Con hạc đầu đình là một vật dụng để thờ cúng, chất liệu thường được làm bằng gỗ hay bằng đồng, được đặt ở nơi đền, miếu, đình, chùa… Chỉ với hình ảnh đặc sắc- hình ảnh của những con hạc ấy rồi tác giả dân gian ngẫm đến thân phận của mình, người phụ nữ thấy có những nét tương đồng. Con hạc ở đầu đình kia có cánh đó nhưng dẫu có muốn bay thì cũng không thể cất nổi mình mà bay. Lấy chuyện của con hạc đầu đình quanh năm ngày tháng dù thời tiết khắc nghiệp như thế nào đi chăng nữa thì cũng cứ phải đứng đó. Và trong suốt cuộc đời, người phụ nữ phải cắn răng chịu đựng bao đau thương, tủi nhục. Nếu như người phụ nữ có thở than thì tiếng thở than của họ cũng không thể thấu tới trời xanh. Họ phải sống trong xã hội đầy những bất công, khi mà người phụ nữ phải sống trong những quy tắc, luật lệ có thể vô lý. Có khi ngay cả những tình cảm cũng sẽ bị những quy tắc vô lý mà xã hội đó áp đặt, khiến cho người phụ nữ càng trở lên đau khổ. Có thể nói cái vòng luẩn quẩn, nghiệt ngã của số phận trói buộc họ, khó bề thoát khỏi. Cho dù họ có có hết sức có muốn vùng dậy để cắt đứt, phá bỏ những xiềng xích vô hình ấy thì cũng không dễ dàng gì. Câu ca dao thật hay và ý nghĩa chứa đựng niềm khát kháo tự do cháy bỏng và một nỗi bất bình sâu sắc.

Những bài ca dao  như đã  gói trọn những tâm tu của người phụ nữ. Đặc biệt là trong các bài cao dao than thân đó là những bài ca dao trên là tiếng nói than thân trách phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc xưa kia. Nhân vật được nói đến không phải là một cá nhân cụ thể mà là trăm ngàn phụ nữ cùng chung cảnh ngộ, cuộc đời giống như chuỗi bỉ kịch kéo dài. Ở họ có thể hạnh phúc chỉ là một cái gì đỏ rất mơ hồ, khó hình dung và càng khó mà đạt được va nó chỉ giống như bong bóng xà phòng, đẹp đó nhưng mong manh và dễ vỡ.

Ca dao được sáng tác bởi nhiều tác giả dân gian khác nhau, ở những thời kì khác nhau, trên những vùng đất khác nhau. Gặp trong những cảnh ngộ đắng cay, người nông dân xưa hay  liên hệ số phận mình với một hình ảnh tương tự nào đó, thế là một câu ca dao ra đời! Câu ca dao ấy như vừa chất chứa những tâm tư, vừa ghi lại dấu ấn thực tế cuộc sống của người sáng tác. Những tấm lòng đồng cảm tự nhiên không hẹn mà gặp, cái chung của số phận người phụ nữ đã làm cho những câu ca dao gặp nhau ở cùng một nội dung ý nghĩa.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Phân tích bài ca dao :

- Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng

- Đan sàng thiếp cũng xin vâng

Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng

4. Củng cố:

- Nội dung, nghệ thuật của ca dao yêu thương tình nghĩa. Vẻ đẹp tâm hồn của người bình dân xưa.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 22/11/2017

Tiết 69-70.

CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA (5)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Đồng cảm với tâm hồn người lao động và yêu quý những sáng của họ. Biết cảm thông với số phận những con người bất hạnh, thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp. Năng lực cảm thụ văn học cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người dân lao động thời xưa và năng lực tư duy phát hiện sự độc đáo trong nghệ thuật của ca dao.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Phân tích bài ca dao :

- Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng

- Đan sàng thiếp cũng xin vâng

Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng

Bài làm :

Cô kia cắt cỏ một mình

Cho tôi cắt với chung tình làm đôi

Cô còn cắt nữa hay thôi

Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng.

Nước ta có một kho tàng văn học rất phong phú và đa dạng. bao gồm những câu hát giao duyên, những câu đối tỏ tình đầy lãng mạn nhưng mang đậm truyền thống dân quê của nước ta. Đây là nét đẹp truyền thống của nhân dân ta mang tính nhân văn sâu sắc. Trong đó có bài ca dao:

“Đêm trăng thanh, anh mới hỏi nàng,

Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng ?

Đan sàng thiếp cũng xin vâng,

Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng ?”.

Đây là một bài giao duyên rất hay về tình yêu đôi lứa. Trong khung cảnh đêm hè mùa thu có trăng thanh gió mát phong cảnh thật là hữu tình. Đồng thời trai gái trong xóm cũng đang ở dưới một mái sân đình tụ tập đông vui cùng múa hát và đối đáp giao duyên đầy tình nghĩa. Từ đó, mà các chàng trai đã mở lời tỏ tình mới những người con gái mà họ thích. Cách tỏ tình của các chàng trai cực kì là tình tứ và tế nhị và các cô gái đối đáp lại cũng như thế. Đây là một nét đẹp của con người việt nam xưa.

Hai câu thơ đầu là lời tỏ tình của chàng trai đầy tình cảm và ngộ nghĩnh:

“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng

Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng”

Tình yêu chốn thôn quê  thật là mộc mạc và giản dị gắn liền với những hình ảnh mộc mạc của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Chàng trai trong bài ca dao tận dụng khung cảnh đất trời lúc này để dãi bầy tâm ý với cô  gái. Trong khung cảnh đẹp đẽ nên thơ ấy có một người con gái rất xinh đẹp đứng trước mặt nên chàng trai. Chàng trai rất mạnh mẽ đã bắt đầu mở lời với cô gái. Chàng trai mượn hình ảnh “tre non” ý muốn nói cây tre non mới mọc đang độ tuổi xanh thì giống người con gái đang ở độ tuổi xuân xanh đẹp nhất của cuộc đời đã lớn và đủ tuổi để lập gia đình “Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng”. Chàng hỏi cô đã đủ tuổi lập gia đình chưa và ý chàng muốn nói nếu đủ rồi và cô chưa có người thương thì chàng muốn lấy cô về làm vợ.

Qua đây ta thấy hình ảnh cây tre thật đẹp tượng trưng cho độ tuổi và tình yêu của đôi trai gái đồng thời người ta chặt che để làm sàng. Chàng trai lấy hình ảnh “nên sàng” để tượng trưng cho một đám cưới và hạnh phúc sau này.

Ca dao xưa có rất nhiều câu nói về sự tỏ tình độc đáo và tế nhị của chàng trai thôn quê như:

“Gặp đây anh nắm cổ tay,

Anh hỏi câu này có lấy anh không ?”

Sau đó là lời đối đáp của cô gái cũng tế nhị và hài hước không kém:

“Đan sàng thiếp cũng xin vâng,

Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng ?”.

Đây là một cô gái cũng rất thông minh và tinh tế cô cũng dùng hình ảnh ẩn dụ để nói về bản thân mình. Bốn chữ “ thiếp cũng xin vâng” có âm điệu nhẹ nhàng và đầy sự dịu dàng và lễ phép một phẩm chất đẹp của người con gái. Người con gái như muốn nói với chàng trai rằng cô chấp nhận lời tỏ tình của chàng trai. Ở đây cô không dùng từ “em” để đáp lại mà cô dùng từ “thiếp” ý muốn nói về sự đoan trang và đức hạnh  đẹp của con người cô. Nói về “thiếp Hồ Xuân Hương có câu “ Thiếp bén duyên chàng có thế thôi”. Chỉ khi nói Chữ thiếp thì với sánh được với chữ chàng để tạo sự hài hòa và đồng thuận ở trong tâm của hai con người.

Ở trong câu nói này người con gái đã chấp nhận lời tỏ tình của chàng trai và ý đáp nhận mình là vợ tương lai của chàng. Người con gái nhấn mạnh “ tre vừa đủ lá” nghĩa là cô gái vừa đủ tuổi lập gia đình nên rất là tươi đẹp. Tiếp câu khẳng định về độ tuổi của mình cô gái lại nhẹ giọng nói tiếp “non chăng hỡi chàng” ở đây cô muốn nói rằng cô đã lớn và cô khẳng định nhân cách của mình có đủ phẩm hạnh để bước vào đời bước vào cuộc sống hôn nhân của mình.

Như vậy qua bài ca dao này ta đã thấy được tình yêu lứa đôi đẹp đẽ của con người Việt Nam khi xưa. Họ rất là nhẹ nhàng và tế nhị. Họ không thẳng thắn tỏ tình bằng những muốn quà vật chất hay những câu nói “anh yêu em” như bây giờ mà họ mượn những hình ảnh thân thương quen thuộc gần gũi với cuộc sống sinh hoạt để nói nên tình yêu và cuộc sống lúc bấy giờ. Đồng thời từ đó nói nên vẻ đẹp và phẩm chất đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam rất đoan trang và tế nhị.

Đề 2.

Phân tích bài ca dao :

“Mình nói với ta mình vẫn còn son

Ta đi  ngang ngõ thấy con mình bò

Con mình những trấu cùng tro

Ta đi xách nước tắm cho con mình”

 Bài làm :

Trong kho tàng văn học dân gian, có rất nhiều bài thơ nói về tình nghĩa vợ chồng, tình yêu đôi lứa, với những câu thơ mộc mạc, chân tình, mà thấm đượm tính nhân văn. Bài thơ trên chỉ có bốn câu, nhưng tác giả dân gian đã kể lại được trọn vẹn  một chuyện tình có hậu.

 

“Mình nói với ta mình vẫn còn son”,  đôi nam nữ có thể là mới gặp, nhưng đã thấy cảm, thấy mến, nên cách xưng hô của họ thật gần gũi, thân thương như có duyên “tiền định”. Bởi vậy mà cách tỏ tình của họ không cần phải vòng vo thăm dò, ý tứ… như người ta :

 

“ Bây giờ mận mới hỏi đào

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ?”

 

Để rồi sau đó mới

 

 “ Mận hỏi thì đào xin thưa

Vườn hồng đã ngỏ nhưng chưa ai vào”

 

Cổng vườn hồng lâu nay vẫn chờ anh, vẫn để dành cho anh, và bây giờ thì đã mở rồi đấy ! Anh có vào không, có dám vào không, hay cứ tính toán, đắn đo, dùng dằng mãi ? Bởi vì “Mận” với “Đào”, thì  đã cảm nhau,  “phải lòng nhau”  từ lâu rồi, thậm chí lâu đến độ để cho người ta sốt ruột, nên mới phải trách móc nhẹ nhàng, sao ” Bây giờ” mới hỏi. Nhưng may là chưa muộn vẫn còn kịp.  Đúng là có trăm ngàn cách tỏ tình khác nhau, cách tỏ tình của “ta” và ” mình”  trong bài thơ trên, quả là “cứ thẳng như mực tầu”. Ta hỏi mình, thậm chí có thể ta chưa kịp hỏi mình, thì mình đã nhanh nhẩu nói ra cái điều mà ta muốn biết, ta cần biết rồi. Mình  “còn son”, nghĩa là chưa vướng bận gì , đó là điều kiện tiên quyết  theo quan niệm thông thường, để ta đến với mình, ta kết đôi, ta nên vợ, nên chồng với mình. Ta chân thành nghĩ vậy và ta cũng tin là như vậy. Nhưng khi đi “ ngang  ngõ” nhà mình, ta mới tá hỏa, lặng cá, bởi thấy con mình đang bò trước mặt ta, giữa thanh thiên bạch nhật. Đã vậy, “con mình” lại còn “những trấu cùng tro”, chắc hẳn là cuộc sống của mình cũng lam lũ vất vả lắm. Và, hơn thế nữa, “trấu, tro” không chỉ  làm bẩn con mình, mà có lẽ thứ bụi trần tục ấy , còn vấy cả lên cuộc đời mình nữa. Đến đây, nếu câu thơ tiếp theo  ngập ngừng ngắt ra, không liền nhịp, thì rõ ràng thể hiện là ta đã bị “sốc” trước sự thật phũ phàng ấy, và  cảm giác ta bị mình lừa dối sẽ bóp nát tim ta. Nhưng không ! câu thơ vẫn liền nhịp trong cái nhạc điệu chung của toàn bài, chứng tỏ sau vài giây ( chắc chắn là chỉ trong khoảnh khắc ấy thôi)  bàng hoàng, ta đã trấn tĩnh lại ngay và bỗng hiểu ra tất cả : mình dối ta, vì tự trong thẳm sâu, mình  yêu ta, mình cảm nhận được ta cũng yêu mình. Và, bằng kinh nghiệm đã trải qua của chính cuộc đời mình, mình không muốn mất ta, mình muốn dâng hiến cho ta một tình yêu đích thực, mà bấy lâu mình hằng ấp ủ. Còn đứa con, có thể chỉ là kết quả của một cuộc tình đắng ngắt ? Vậy là ta thở phào nhẹ nhõm, bởi cái sự nói “dối” kia lại chứa đựng tình cảm cao quý chân thực của mình. Bởi chính mình cũng thừa biết là ta đâu phải người cả tin, mình làm sao dối ta được. Bởi vì  ta và mình nào có đường xa, dặm ngái gì, gần đến mức chỉ cần “cuốc bộ” ta cũng đi được qua ngõ nhà mình kia mà. Vả lại, suy cho cùng thì mình cũng đâu có muốn giấu ta hoàn cảnh thực của mình. Chứng cứ là, ta chưa cần vào nhà, chỉ mới “đi qua” ngõ thôi, đã biết hết cả rồi. Thế thì ta còn đợi gì nữa, mà không vượt qua tất cả các trở ngại về tâm lý, về quan niệm thông thường của  xã hội để  trân trọng đón nhận tình cảm của mình, bằng một việc làm kịp thời, chính xác, thiết thực, đầy thuyết phục là “ ta đi xách nước tắm cho con mình”. Vì con mình cũng là con ta, con mình sạch sẽ, thơm tho chính là tấm lòng, là tình cảm chân thành của ta với mình đấy. Vì tự trong sâu thẳm, ta đã ý thức được rằng, từ đây ta với mình đã là một rồi. Ta tắm cho con mình sạch,  nghĩa là ta muốn gửi đến mình thông điệp để mình tin rằng, với tình cảm mộc mạc, chân thành của ta thì  mình vẫn :

 

“ thơm như hương nhụy hoa lài

Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”

(Tố Hữu)

 

Về nghệ thuật, có thể nói, câu chuyện tình đầy “kịch tính” đã được tác giả nén rất chặt, “thắt nút” ngay trong hai câu đầu  “Mình nói với ta, mình vẫn còn son”, nhưng khi “ ta đi ngang ngõ thấy con mình bò”, thì sự thật bị “lật tẩy”, mình còn “son” cái nỗi gì nữa ?  Lẽ thường, ai cũng nghĩ, anh chàng sẽ xa chạy , cao bay “bỏ của chạy lấy người”. Nhưng ngược lại, anh chàng lại vội đi “xách nước tắm cho con mình”. Một hành động hợp tình, hợp cảnh, rất logic và đầy sức thuyết phục. Câu thơ cuối khép lại, “kịch tính” được giải tỏa khiến người đọc thỏa mãn.

 

Với ngôn ngữ  chân quê mộc mạc, bài ca dao đã dẫn người đọc từ bất ngờ này, đến bất ngờ khác về cách biểu hiện tình cảm và  ứng xử  trong tình yêu của người lao động giữa đời thường.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Phân tích cái hay cái đẹp của bài ca dao:

“Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?”

4. Củng cố:

- Nội dung, nghệ thuật của ca dao yêu thương tình nghĩa. Vẻ đẹp tâm hồn của người bình dân xưa.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 23/11/2017

Tiết 71-72.

CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA (6)

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

- Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Đồng cảm với tâm hồn người lao động và yêu quý những sáng của họ. Biết cảm thông với số phận những con người bất hạnh, thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự học, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, Năng lực thẩm mỹ, Năng lực giao tiếp. Năng lực cảm thụ văn học cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn người dân lao động thời xưa và năng lực tư duy phát hiện sự độc đáo trong nghệ thuật của ca dao.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Phân tích cái hay cái đẹp của bài ca dao:

“Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?”

Bài làm :

Ca dao là tiếng hát trữ tình, là tiếng lòng của quần chúng nhân dân lao động. Người bình dân đã thể hiện và gửi gắm tâm hồn vô cùng phong phú của mình vào những câu hát giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc.

Ca dao dân ca Việt Nam tràn ngập ánh trăng vàng. Có vầng trăng thề nguyền, ước hẹn. Có vầng trăng thương nhớ, đợi chờ. Có vầng trăng li biệt, man mác bâng khuâng:

“Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng ?”

Có vầng trăng chênh chếch ngọn tre làng. Có cảnh tát nước đêm trăng. Vầng trăng và thôn nữ sao mà dẹp và đáng yêu thế:

“Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?”

Biết bao lần em được nghe vần ca dao bát ngát ánh trăng ấy. Vần ca dao ngột ngào và dào dạt ánh trăng đã tắm mát và tỏa sáng tâm hồn em. Tâm hồn con người Việt Nam phong phú, tươi đẹp, đậm đà hương sắc hoa bưởi, hoa cà, hoa sen và tỏa sáng vầng trăng. Câu ca dao “Hỡi cô tát nước bên đàng…” đã làm đẹp thêm tâm hồn vốn rất yêu trăng của nhân dân ta.

Thơ cổ ghi lại những thú vị chơi trăng. Có tao nhân “đăng sơn vọng nguyệt”. Có mặc khách “lên lầu thưởng trăng”. Có trăng Tầm Dương trong tiếng Tì bà. Có “thi tiên” uống rượu và nằm ngủ dưới trăng, v.v… Trăng, rượu, hoa là thú vui tao nhã ở đời. Trăng được nói đến trong bài ca dao này là trăng đồng quê, vầng trăng với thiếu nữ, là cảnh tát nước đêm trăng.

Một cặp thơ lục bát đậm đà gió nội hương đồng đã làm hiện lên trước mắt ta cảnh vật đồng quê một đêm trăng tuyệt vời. Đó là vẻ đẹp của một cánh đồng quê bát ngát màu xanh và ngào ngạt hương lúa tràn ngập ánh trăng vàng. Đó là vẻ đẹp duyên dáng, khỏe đẹp của một thiếu nữ đang cần mẫn tát nước dưới trăng. Suối tóe, cánh tay, nét mặt và toàn thân cô gái như dát ánh trăng vàng. Đó là vẻ đẹp của con kênh xanh xanh ngời ngời ánh trăng. Gầu nước vục xuống, mặt nước xao động, muôn ánh trăng vàng tan ra lung linh huyền ảo. Cô thôn nữ tát nước một mình mà chẳng lẻ loi vì đã có vầng trăng làm bạn và còn có chàng trai làng từng thầm yêu trộm nhớ đang say mê ngắm “nàng tiên” tát nước dưới trăng. Cảnh vật và con người, lao động và tình yêu, dòng nước và con đường… đều tràn ngập ánh trăng. Câu ca dao mười bốn từ, chỉ có một từ “trăng” mà người đọc thấy mát rượi ánh trăng. Nhà thơ dân gian đã sống nhiều với vầng trăng nơi thôn dã, đã yêu vầng trăng với một tình yêu bao la, đã phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn trai gái làng quê, nên mới nói thật hay, thật đẹp cảnh thiếu nữ tát nước đêm trăng như vậy.

Một câu hỏi bâng quơ mà tinh nghịch ? “Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?” Chàng trai làng đa tình lấp ló đâu đây ? Một câu hỏi ngạc nhiên, một lời trầm trồ khen ngợi, hay một lời tỏ tình tế nhị, kín đáo của chàng trai ? Tất cả đều có thể. Chân lí cuộc đời và chân lí nghệ thuật vốn đa âm và phức điệu. Trong cảm nhận của nhiều người xưa và nay là đằng sau sự miêu tả cảnh tát nước đêm trăng còn là tiếng hát giao duyên chứa chan tình thương nỗi nhớ.

Cái hay cái đẹp của câu ca dao là tả ít mà gợi nhiều. Cảnh ngụ tình đầy thơ mộng. Chàng trai say mê ngắm thiếu nữ tát nước. Cảnh đẹp, người đẹp làm tôn chất thi vị, hữu tình. Dòng nước ngập ánh trăng. Mỗi gầu nước múc lên, thiếu nữ đổ đi biết bao ánh trăng vàng. Trăng tan vào nước bạc như giọt mồ hôi thiếu nữ tắm mát đồng lúa nương dâu, dệt bao mộng đẹp. Vì yêu người nên chàng trai thêm yêu trăng. Cảnh tát nước đêm trăng gợi cho ta thấy lao động là niềm vui sáng tạo. Tát nước đêm trăng hay là sự hẹn hò của những cô Tấm anh Điền nơi làng quê ? Một tình yêu trong sáng, lành mạnh gắn liền với lao động có sự chứng kiến của vầng trăng.

Đến với vầng,trăng ca dao, ta yêu thêm vầng trăng xứ sở, yêu thêm đồng lúa quê ta, yêu thêm người dân cày Việt Nam. Dưới vầng trăng thanh bình có biết bao mối tình trong sáng, thủy chung nảy nở:

“Đèn tà thấp thoáng bóng trăng,
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này ?”

Có cảm được vẻ đẹp nguyên sơ của vầng trăng ca dao dân ca thì mới cố thể cảm được cái hay của vầng trăng trong cổ thi – trăng trong thơ Lý Bạch, trong thơ Nguyễn Trãi, trăng trong "Truyện Kiều” của Nguyễn Du, trăng trong thơ Nguyễn “ Khuyến và “trăng xưa, hạc cũ với xuân này" trong thơ Bác Hồ kính yêu…

Đề 2.

Phân tích bài ca dao “Tát nước đầu đình”.

Bài làm :

Hôm qua tát nước đầu đình là một trong những khúc nhạc dạo đầu của bản tình ca trong ca dao. Gọi tên mộc mạc nó ra là bài ca dao tỏ tình. Vạn sự khởi đầu nan vật đây là khâu mở đầu khó nhất mà cái khó nhất trong khâu này là tìm cho được một cái cớ gì. Có thể là trong lao động, trong sinh hoạt, họ đã để ý nhau, gặp nhau nơi cuối mắt đầu mày, nhưng chưa có dịp nào, chưa có cớ gì để bày tỏ lòng yêu của mình. Cái làm cho tình yêu cất lên thành lời, đó là cái có. Tình yêu vốn có nhiều sáng kiến cho nên mỗi thời con trao con gái có cớ riêng và mỗi môi tình lại có cớ riêng. Cái cớ Kim Trọng đến với Thuý Kiều là thuê nhà trọ học (có xa) rồi bắt được cành kim thoa (cớ gần). Cái cớ của anh con trai trong bài ca dao này là bỏ quên chiếc áo. Đấy là một cái cớ hay. Cái áo tiềm tàng nhiều khả năng rung động người con gái, dễ bày tỏ hoàn cảnh, thể hiện ước muốn. Trong ca dao chúng ta hay nghe phụ nữ nói đến chiếc áo, có lẽ vì hơi hướm chăng?

Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.

Hay là:

Áo xông hương của chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp lấy hơi.

Bây giờ hãy xem anh con trai dẫn dắt câu chuyện như thế nào. Anh con trai mở lời:

Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin…

Ai mà chả tin có chuyện bỏ quên chiếc áo ; có thời gian nhé, có địa điểm nhé, lại gắn với chuyện làm ăn. Nhưng đây là sự bày đặt, bày đặt để dẫn dắt đến lời ướm thử này:

Hay là em để làm tin trong nhà…

Người nghệ sĩ dân gian đã giữ lại cho chúng ta những tình cảm lành mạnh, trong sáng tế nhị trong cách tỏ tình của những đôi lứa ngày xưa.

Thế là đoạn nhạc chuyển gam, lời ca chuyển điệu. Và với giác quan thứ sáu của tuổi yêu dương, người con gái nào chả nhận ra sự thay đổi “thời tiết” trong không khí của buổi trò chuyện. Còn đang bị chấn động trong cái không khí hư hư thực thực đó thì người con gái nghe đụng vào trái tim minh:

Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có …

Lời lẽ nghe mới dễ thương làm sao. Áo anh sứt chỉ thôi, chứ đâu có rách, nghĩa là chỉ đủ gợi tình thương chứ không gợi lòng thương hại, vì từ thương hại đến khinh thị chỉ có một khoảng cách . Và cũng chỉ tạo ra cái phút rung động của người con gái đó, anh con trai mới nói trôi được cái lời khó nói nhất trong buổi mới lạ lùng này:

Vợ anh chưa có…

Câu trên là gợi tình thương. Câu dưới là mở lối cho tình thương đến tình yêu. Rồi còn gợi lên thêm nữa áo anh sứt chỉ đã lâu… Những sợi dây tình cảm đã rung lên, anh con trai mà biết nhấn thêm cho nó ngân nga trong trái tim người con gái đặng nói đến những lời lẽ thiết tha:

Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng
Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho.

Từ cô ấy phiếm chỉ có duyên gây một chút kịch tính giữ cho người con gái nghe đến lời cuối:

Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vợ rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp đôi trằm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

Nhạc điệu thay đổi rất hay, nghe như rót vào tai:

Một, một, một; rồi đôi, đôi, đôi ; một thì một thúng, một con, một vò tròn trịa, đầy đặn, thật là hào phóng ; đôi thì đôi chiếu, đôi chăn, đôi trầm, gợi đến lễ vật chiếu chăn thật là nồng nàn ; rồi nhảy vọt lên quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới thật là chu tất, lại đèo buồng cau hậu hĩnh quá chừng. Xuân Diệu thì nói rằng lòng anh thôi đã cưới lòng em, còn anh con trai nông dân ở đây thì thay lời đó bằng một lễ cưới. Thế là anh con trai, từ một cái cớ rất hay, biết dẫn dắt đến những điều khó nói và nói được trôi chảy từ đầu chí cuối trong cái phút ban đầu của trăm năm.

Bằng tài hoa nghệ thuật, người nghệ sĩ dân gian đã giữ lại cho chúng ta những tình cảm lành mạnh, trong sáng tế nhị trong cách tỏ tình của những đôi lứa ngày xưa. Đấy là một tình cảm đẹp đẽ trong tình yêu đẹp đẽ của nhân dân ta mà ngày nay chúng ta nên trân trọng.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Phân tích bài ca dao sau:

- Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!

- Ba đồng một mớ trầu cay,

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng,

Như chim vào lồng như cá cắn câu.

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra?

4. Củng cố:

- Nội dung, nghệ thuật của ca dao yêu thương tình nghĩa. Vẻ đẹp tâm hồn của người bình dân xưa.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.

- Chuẩn bị bài : “Tỏ lòng” (Phạm Ngũ Lão).

Ngày soạn : 25/11/2017

Tiết 73-74.

TỎ LÒNG

(Thuật hoài)

- Phạm Ngũ Lão -

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Kĩ năng tìm hiểu một bài thơ trữ tình ngôn chí trung đại theo thể Đường luật.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Tự hào về vẻ đẹp của con người trong thời đại anh hùng, thời đại mang tinh thần quyết chiến quyết thắng - thời đại Đông A. Nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng, trở thành một công dân có ích cho đất nước trong tương lai.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp lịch sử kháng chiến chống Nguyên Mông.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ

Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả:

- Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) quê làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên.

- Ông là một võ tướng nhưng ông thích đọc sách, ngâm thơ. Ông được ca ngợi là văn võ toàn tài.

- Tác phẩm còn lại của ông chỉ còn hai bài thơ chữ Hán:  Thuật hoài (Tỏ lòng) và Vãn thượng tướng Quốc công Hưng Đạo đại vương.

2. Bài thơ

a. Xuất xứ

Phỏng đoán Phạm Ngũ Lão làm bài thơ Tỏ lòng vào cuối 1284, khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai đang đến rất gần.

b. Nhan đề: Thuật hoài

- Thuật: kể, bày tỏ.

- Hoài: nỗi lòng.

- Dịch: Tỏ lòng nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão ở trong lòng.

c. Chủ đề:

Khí thế hào hùng của cả một thời đại và hoài bão lớn lao của vị tướng trẻ tuổi, muốn có sự nghiệp lẫy lừng như Gia Cát Lượng.

3. Nội dung

a. Hai câu đầu: Vẻ đẹp kì vĩ của người tráng sĩ hòa cùng khí thế hào hùng của thời đại.

- Hình ảnh người tráng sĩ hiện lên với tư thế hiên ngang kỳ vĩ mang tầm vóc lớn lao: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ non sông đất nước. Không gian như mở ra cả hai chiều, chiều rộng được đo bằng cả non sông đất nước, chiều cao lên đến tận bầu trời. Thời gian không phải một tháng, một năm mà đã mấy mùa thu, mấy năm ròng rã.

- Hình ảnh cả dân tộc hiện lên qua bút pháp phóng đại, so sáng: Tam quân tì hổ khí thôn ngưuđã cụ thể hóa sức mạnh của ba quân – của quân đội nhà Trần với khí thế nuốt trôi trâu, át cả bầu trời, làm mờ cả sao ngưu. Đó là tinh thần xông pha, quyết chiến, quyết thắng mọi kẻ thù xâm lược. Câu thơ thể hiện rõ Hào khí Đông Amột thời.

b. Hai câu sau: Khát vọng công danh và cái tâm chân thành của người anh hùng.

Chí nam nhi của người anh hùng thể hiện ở khát vọng lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm). Công danh được coi là món nợ đời mà người anh hùng phải trả. Đó cũng là khát vọng “tận trung báo quốc” là lẽ sống lớn của con người thời đại.

- Cái tâm của người anh hùng Phạm Ngũ Lão thể hiện qua nỗi thẹn vì cảm thấy mình chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán. Đó là nỗi thẹn của những con người có nhân cách. Một nỗi thẹn đầy khiêm tốn nhưng cao cả, cái thẹn làm nên nhân cách lớn.

4. Nghệ thuật

- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt: thuộc lối thơ ngôn chí, bày tỏ chí hướng, nguyện ước và lí tưởng sống của con người cá nhân in đậm trong cảm quan nhà nho. Cảm hứng về con người và ý thức làm người tài giỏi, hữu dụng được kết tinh trên nền tảng đời sống văn hóa và khí thế, sức mạnh thời Trần – hào khí Đông A.

- Bài thơ sử dụng hình ảnh biểu tượng hàm súc, có ý nghĩa sâu xa.

- Thủ pháp nghệ thuật: + Con người kì vĩ.

                                      + Không gian kì vĩ.

                                      + Thời gian kì vĩ.

5. Cảm hứng yêu nước trong bài thơ “Tỏ lòng”

Cảm hứng yêu nước là nội dung nổi bật hàng đầu của văn học Trung đại Việt Nam. Lúc đầu yêu nước gắn với trung quân, sau chuyển hóa thành yêu nước là yêu dân.

Cảm hứng yêu nước trong bài thơ Tỏ lòng được biểu hiện ở một số nội dung sau:

-  Lòng căm thù giặc và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm:

Hình ảnh người chiến sĩ cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn.

Đội quân sát thát ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ), quyết đánh tan kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận.Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn nổi.

Khí thôn ngư nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao ngưu, làm át làm lu mờ cả sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu.

-   Tư tưởng trung quân ái quốc. Yêu nước là yêu vua.

Khát vọng lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng. Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ.Mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc.

Công danh mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ công danh tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” cái thẹn chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu giúp đỡ nhà Hán để trừ giặc, cứu nước, để Tổ quốc Đại Việt trường tồn, bền vững. Cho thấy Phạm Ngũ Lão là một con người luôn có khát vọng lập công báo quốc suốt đời, suốt đời tận tụy trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo.

6. Hào khí Đông A

- Hào khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại thành chữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái không khí oai hùng, hào sảng của thời Trần (thời kì mà chúng ta có những chiến công lừng lẫy khi cả ba lần đều đánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên- Mông).

Hào khí Đông A là chỉ cái khí thế hừng hực  của niềm vui chiến thắng, chỉ cái khát khao mang tính thời đại mà ở đó ai ai cũng muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho sự vững bền mãi mãi của non sông đất nước mình.

Hào khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn trở thành sự kết tinh cho những biểu hiện cao đẹp của lòng yêu nước. Có không ít tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào khí Đông A: Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lao,Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) của Trần Quang Khải, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn,…

Tỏ lòng là một bài thơ ngắn nh­ưng lại mang đậm dấu ấn của cả một thời (dấu ấn về âm hư­ởng của hào khí Đông A).

Bài thơ là một bức tranh kì vĩ, hoành tráng bởi vẻ đẹp của hình t­ượng ngư­ời anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tư­ởng và nhân cách lớn lao. Bài thơ cũng là vẻ đẹp của thời đại với khí thế hào hùng mang tinh thần quyết chiến và quyết thắng.

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề bài :

Phân tích bài thơ “Tỏ lòng” (Phạm Ngũ Lão).

Gợi ý :

I. Mở bài :

- Nhắc đến Phạm Ngũ Lão,chúng ta liền nhớ đến người anh hùng xuất thân ở tầng lớp bình dân,ngồi đan sọt mà lo việc nước.Về sau,chàng trai làng Phù Ủng ấy đã trở thành nhân vật lịch sử từng có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên-Mông,giữ địa vị cao ở đời Trần.

- Phạm Ngũ Lão là người văn võ song toàn.Văn thơ của ông để lại không nhiều,nhưng “Thuật hoài” là bài thơ nổi tiếng hừng hực hào khí Đông A của lịch sử giai đoạn thế kỷ X đến XV.

II. Thân bài :

2.1. Hoàn cảnh sáng tác :

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1282 quân Nguyên đòi mượn đường đánh Chiêm Thành,nhưng thực ra định xâm lược nước ta.Trước tình hình ấy,vua Trần mở hội nghị Bình Than bàn kế hoạch đánh giặc.Sau đó,Phạm Ngũ Lão và một số vị tướng được cử lên biên ải phía Bắc đẻ trấn giữ đất nước.Hoàn cảnh lịch sử chắc chắn đã ảnh hưởng nhiều đến hào khí trong bài thơ.

2.2 Tựa đề:

- Thuật có nghĩa là bày tỏ , hoài là mang trong lòng .Thuật hoài nghĩa là bầy tỏ khát vọng , hoài bão. Đây là đề tài quen thuộc trong thơ cổ. Điều đáng chú ý của baìo thơ này ở chỗ người tỏ lòng là một vị tướng đang giữ trọng trách nặng nề nơi biên ải.

2.3 Hai câu đầu:

- Câu 1 khắc hoạ hình ảnh người tráng sĩ qua tư thế và hành động .Hoành sóc nghĩa là cặp ngang ngọn giáo .Người trai càm giáo đã mấy thu sẵn sàng bảo vệ non sông đất nước . Tư thế ấy lại đặt trong không gian kỳ vĩ của giang san.Tất cả những chi tiết trên đã dựng lên bức chân dung oai phong lẫm liệt của người trai thời loạn.

- Câu 2 là hình ảnh ba quân.Ngày xưa ,quân lính thường chia làm ba đội gọi là tiền quân , trung quan ,hậu quan.Vì thế , câu thơ nói đến ba quân là ca ngợi sức mạnh của toàn dân tộc . Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu ,câu thơ có thể hiểu theo hai cách.Khí thôn Ngưu là khí thế nuốt được cả con trâu (chú giải của sách giáo khoa),cũng có thể hiểu là nuốt cả con ngưu.Cả hai cách hiểu đều nói đến khí thế mạnh mẽ của dân tộc . Đây là hình ảnh ước lệ quen thuộc thường gặp trong thơ cổ nhưng đặt trong hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm ,hình ảnh này lại gợi lên những cảm xúc chân thực vì phản ảnh hào khí của thời đại.

- Hai câu thơ là hai hình ảnh bổ sung vẻ đẹp cho nhau.Thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng , ngược lại mỗi cá nhân đóng góp sức mạnh làm nên hào khí của thời đại.Câu thơ bộc lộ niềm tự hào của tác giả về quân đội của mình , về con người và thời đại của mình.Tác giả nói về chính mình vừa nói tiếng nói cho cả thế hệ.

2.4 Hai câu sau:

- Đến đây bài thơ mới bầy tỏ hoài bão của nhân vật trữ tình . Đó là lập công danh nam tử, tức là công danh của đấng làm trai theo lý tưởng phong kiến .Người xưa quan niệm ,làm trai là phải có sự nghiệp và danh tiếng để lại muôn đời .Chí làm trai được coi là món nợ phải trả của đấng nam nhi .Phạm Ngũ Lão đã bầy tỏ khát vọng được đóng góp cho đất nước , xứng đáng là kẻ làm trai .Khát vọng thật đẹp và cao cả.

- Nhưng thật bất ngờ , câu kết bài thơ lại là nỗi thẹn:

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

Vũ Hầu là Gia Cát Lượng , quân sư nổi tiếng đã giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán.Phạm Ngũ Lão thẹn vì thấy mình tài giỏi như Vũ Hầu để lập công giúp nước . Đây là nỗi thẹn cao cả , cái thẹn làm nên nhân cách .Vì sao? Phạm Ngũ Lão là người có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ đất nước , đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông.Vậy mà ông vẫn còn cảm thấy mình vương nợ với đời , còn phải thẹn lhi nghe thuyết Vũ Hầu . Điều đó nói nên khát vọng muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước.

- Nếu hai câu đầu của bài thơ khắc hoạ chân dung người trai Đại Việt với vẻ đẹp oai phong bao năm bền bỉ bảo vệ đất nước thì hai cau sau bộc lộ chí lớn và cái tâm cao cả của người tráng sĩ.

III. Kết luận:

- Bài thơ súc tích , ít lời nhưng đã nói nên lí tưởng nhân sinh của kẻ làm trai: lập công danh không phải chỉ để vinh thân vì phì gia,mà vì đan tộc ;khi đã có công danh , còn phải phấn đấu vươn lên không ngừng.

- Bài thơ súc tích , lời ít , chi tiết có sức gợi , tiêu biểu quy luật kết tinh nghệ thuật của văn học trung đại

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Cảm nhận của em về hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong bài “Thuật hoài” - Phạm Ngũ Lão.

4. Củng cố:

- Nét đẹp về nghệ thuật và nội dung của bài “Tỏ lòng”.

5. Dặn dò :

- Học thuộc bài và tự giác luyện tập.

- Soạn tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 26/11/2017

Tiết 75-76.

TỎ LÒNG

(Thuật hoài)

- Phạm Ngũ Lão -

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

.................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

2. Kĩ năng:

- Kĩ năng tìm hiểu một bài thơ trữ tình ngôn chí trung đại theo thể Đường luật.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Tự hào về vẻ đẹp của con người trong thời đại anh hùng, thời đại mang tinh thần quyết chiến quyết thắng - thời đại Đông A. Nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng, trở thành một công dân có ích cho đất nước trong tương lai.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp lịch sử kháng chiến chống Nguyên Mông.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ

Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Cảm nhận của em về hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong bài “Thuật hoài” - Phạm Ngũ Lão.

Hướng dẫn chung :

Mở bài :

Giới thiệu sơ lược về tác giả Phạm ngũ Lão và bài thơ Thuật hoài.

Giới thiệu vấn đề Nghị luận  :Hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong bài Thuật Hoài- Phạm Ngũ Lão

Thân bài :

Ý khái quát :

+Vài nét về tác giả Phạm Ngũ Lão : Ý này có thể tham khảo phần Tiểu dẫn SGK

+ Vài nét về hoàn cảnh sáng tác và nội dung chính của bài thơ Thuật hoài

Phân tích cụ thể :Hình ảnh trang nam nhi thời Trần trong bài Thuật Hoài- Phạm Ngũ Lão

Phân tích , cảm nhận theo bố cục 2 phần :

+ Hai câu đầu : Hình ảnh trang nam nhi thời Trần và sức mạnh của quân đội nhà Trần

+ Hai câu cuối : Quan niệm về chí làm trai, tấm lòng của người anh hùng với dân, với nước.

=> Chú ý phân tích cả phần nghệ thuật

Kết bài :

Đánh giá về vẻ đẹp  trang nam nhi thời Trần trong bài Thuật Hoài- Phạm Ngũ Lão. Khẳng định giá trị bài thơ.

Bài làm :

Sách Đại Việt Sử kí toàn thư ghi: Phạm Ngũ Lão là tướng đời Trần, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Nguyên “đánh đâu thắng đấy”. Ông lo việc binh, đồng thời “lại thích đọc sách, ngâm thơ”.  Cũng như nhiều danh tướng đời Trần, Phạm Ngủ Lão vừa cầm quân đánh giặc. vừa viết những áng văn thơ để lại muôn đời Trong đó nổi tiếng hơn cả là bài Thuật hoài. Đọc bài thơ này, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp hùng dũng cao cả của người trai đời Trần.

Cũng như Cảm hoài, Ngôn hoài; Thuật hoài là một loại thơ trữ tình “ngôn chí” khá phổ biến trong thơ ca thời trung đại, để bày tỏ những ý nghĩ, những tình cảm lớn của tác giả (Thuật hoài có nghĩa là Tỏ lòng). Đến nay, chúng ta chưa nắm được đích xác hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Tuy nhiên, dựa vào nội dung của tác phẩm có thể khẳng định bài thơ này ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân đời Trần, khi lực lượng của  nước Đạị Việt đã lớn mạnh nhưng trong chiến đấu chống giặc Nguyên – Mông chưa đi đến thắng lợi cuốí cùng.

Bài thơ viết theo  thể tứ tuyệt luật Đường, 4 câu, mỗi câu 7 âm tiết. Hai câu đầu được dịch là:

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân hùng khí át sa0 Ngưu.

Trong nguyên bản, hai câu này là:

Hoành sóc giang san cáp kỉ thu

Tam quân tì hổ  khí thôn Ngưu.

“Hoành sóc” được    dịch thành “múa giáo” dễ làm cho  người đọc hiểu không    hoàn toàn đúng. “Hoành sóc” tức là cầm    ngang ngọn giáo, cả câu có nghĩa là *cầm ngang ngọn giáo (bảo vệ) non sông đã mấy mùa thu. Chỉ cần 7 chữ nhưng câu thơ trên đây tả gợi được hình ảnh của người trai đời Trần và cũng chính là của Phạm Ngũ Lão với tư thế hùng düng, luôn kiên cường,sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, lập nên những chiến công huy hoàng. Dẫu họ đã ngoan cường chiến đấu bao năm tháng trải mấy thâu” – mấy mùa thu rồi) nhưng vẫn bừng bừng một khí thế, một sức mạnh hiên ngang bất khuất. Hình ảnh người tráng sĩ càng trở nên chói lọi bởi hùng khí của ba quân Ba quân chính là hình ảnh của cả thế hệ Phạm Ngũ Lão, của cả dân tộc đang sống trong hào khí Đông A. Sức mạnh của “ba quân’ được ví như sức mạnh ghê gớm của hổ báo làm át sao  Ngưu. Còn một cách hiểu khác không kém phần ý nghĩa :Sức mạnh của ba quân như hổ báo có thể nuốt trôi được cả trâu. Như vậy, câu thứ nhất nói về cá nhân người trai đời Trần câu thứ hai nói về dân tộc, về cộng đồng. Cá nhân có vẻ đẹp hiên ngang của đất  trời, sông núị, vượt qua mọi thử thách của thời gian, cộng đồng, dân tộc có tầm vóc , sức mạnh của vũ trụ. Cá nhân với cộng đồng, với dân tộc có quan hệ mật thiết hài hòa. Hình ảnh người tráng sĩ oai hùng tạo nên khi thế ngất trời của ba quân; đồng thời khí thế của ba quân lại Làm cho hình ảnh người tráng sĩ thêm lộng lẫy Mỗi con người đều tìm thấy bóng dáng mình trong hào khí chung của dân tộc. Đây là một thời đại cao đẹp của những con người cao đẹp!

Như vậy, chỉ bằng hai câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã phác họa thành công tư thế của nhân vật trữ tình – chàng trai đờỉ Trần và tư thế của dân tộc ta trong một thời điểm lịch sử với  một tầm vóc lớn và quyết tâm lớn. Nhân vật trữ tình ở đây mang vẻ đẹp sử thi, tầm vóc sử thi .Phạm Ngũ Lão không chỉ phát ngôn nhân danh cá nhân mình mà ông còn nhân danh cả dân tộc, cả thời đại

Hình ảnh người tráng sĩ cắp giáo tung hoành nơi trận mạc, hình  ảnh ba quân khí thế ngất trời ta đã gặp nhiều trong văn học trung đại của Việt Nam cũng như của Trung Quốc,(Chàng chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn cũng từng “Múa gươm rượu tiễn chưa tàn – ngang lưng ngọn giáo vào ngàn hang beo”. Nói về tướng sĩ trong bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Lê Thánh Tông cũng có câu “Miệng thòm thèm giương dạ nuốt trâu – Chí hăm hở dang tay bắt vượn”). Song, nếu ở những câu vừa dẫn là những hình ảnh ước lệ nặng tính chất ngao du khoa trương, thì trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là những hình ảnh tuy cũng thật kì vĩ nhưng là những hình ảnh chân thực, hiện thực, bởi người đọc biết rằng chúng ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng vĩ đại của quân dân ta đời Trần. Tại Hội nghị Bình Than, các bô lão Đại Việt đã nhất tể thể hiện tinh thần ấy. Và mỗi binh sĩ thời ấy đều thích hai chữ “sát thát” (giết giặc Nguyên) vào cánh tay.

Tiếp nối một cách tự nhiên mạch cảm xúc ở hai câu đầu, hai câu sau thể hiện khát vọng lập được nhiều chiến công to lớn vì đất nước của vị tướng – thi sĩ :

Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.

Người trai đời Trần không chỉ cao đẹp ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, mà còn cao đẹp bởi có một. quan niệm nhân sinh tích cực. Lập công chính là làm nên sự nghiệp lớn trong công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước. Có công thì mới được ghi danh (têii). Mỗi con người chân chính, đặc biệt đối với những người làm trai, niềm khao khát làm nên sự nghiệp, lưu lại tên tuổi mình cho hậu thế là niềm khao khát chính đáng. Đây chính là động lực to lớn để không ít người có sức mạnh vượt, qua những thử thách cam go lập nên những kì tích vang dội, thúc đẩy sự tiến bộ của toàn xã hội. Chính vì the mà sau Phạm Ngũ Lão 6 thế kỉ, Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:

Làm trai sống ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.

Và không hiểu tự thuở nào ông cha ta vẫn thường khích lệ cháu con: “Làm trai cho đáng nên trai – Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài tan”. Đây chắc chắn không phải là thói hátn danh phàm tục, trái lại là một quan niệm nhân sinh tiến bộ trong truyền thống dân tộc.
Ở đây, cái hay không chỉ ở nội dung toát ra từ câu thơ của Phạm Ngũ Lão mà còn ở chính con người tác giả. Ta đều biết, viên tướng làng Phù ủng này là người “công danh” lừng lẫy đánh đông dẹp bắc, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, cho đến khi tuổi đã cao ông vẫn còn hăng hái cầm quân đánh tan bọn xâm lược quấy rối biên giới phía Tây Tổ quốc, và được phong chức Điện suý thượng tướng quân (1302), được ban tước Quan nội hầu (1318). Thế nhưng, Phạm Ngũ Lão vẫn cảm thấy mình còn “vương nợ” với đời, còn phải “thẹn” khi nghe chuyện Khổng Minh Gia Cát Lượng 1 một nhân vật siêu việt, có công lớn giúp Lưu Bị thời Tam quốc chia ba thiên hạ. Điều này đủ biết khát vọng và nhân cách của tác giả cao cả biết nhường nào? Phải chăng, chính vì ý thức được món nợ chưa trả xong đối với dân tộc, đối với đất nước, chính vì biết “thẹn” trước những nhân vật lẫy lừng trong sử sách đã tạo nên tầm vóc tuyệt vời của nhà thơ – chàng trai đời Trần, người anh hùng Phạm Ngũ Lão với những chiến tích vang dội và với bài Thuật hoài bất hủ này.
Ra đời cách chúng ta đã 7 thế kỉ, song bài Thuật hoài luôn luôn mới mẻ và hấp dẫn, lay động con tim của bao thế hệ người đọc. Bởi vì, qua bài thơ, độc giả bắt gặp hình ảnh vừa chân thực vừa hoành tráng của người trai thời Trẩn với vẻ đẹp thật là hùng vĩ cao cả.

Đề 2.

Phân tích hào khí Đông A trong bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão và phân tích nỗi “thẹn” trong bài thơ.

Bài làm :
Trong lịch sử nước nhà, thời đại nhà Trần là một trong những thời đại lịch sử phát triển nhất. Không thể phủ nhận những thành tựu mà quân dân nhà Trần làm cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực văn hóa, chính trị, quân sự, kinh tế hay tôn giáo…Nhắc đến nhà Trần là nhắc đến hào khí Đông A. Đặc biệt hào khí ấy không chỉ được nhắc đến trong lịch sử mà nó còn được nhắc đến qua bài thơ Tỏ lòng của vị tướng quân tài ba Phạm Ngũ Lão. Đồng thời qua bài thơ này, nhà thơ cũng muốn thể hiện nỗi “thẹn” của mình.


Vậy hào khí Đông A là gì?. Thông thường người ta hay biết đến hào khí Đông A nhưng lại chưa thực sự hiểu ý nghĩa của nó. Hào khí Đông A có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất là đây là triết tự của nhà Trần, chữ Đông và chữ A ghép lại để chỉ thời đại nhà Trần. Tuy nhiên nó còn một ý nghĩa sâu xa hơn, như chúng ta đã biết nhà Trần là một thời đại hợp lòng nhất từ trên xuống dưới, từ quân đến dân, từ nhà vua đến dân chúng. Hào khí Đông A thể hiện rõ ý chí trăm lòng như một của vua dân nhà Trần. Với ý chí quyết tâm không khuất phục, họ đồng lòng đồng thuận với nhau trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Và họ đã làm nên chiến thắng ba lần với giặc Nguyên Mông.


Bài thơ Thuật hoài thể hiện rõ hào khí Đông A thời Trần. Hai câu thơ đầu là tiêu biểu cho sự thể hiện đó:


“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”
“Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”


“Hoành sóc giang sơn” có nghĩa là cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Thời nhà Trần phải chống lại kẻ thù nguy hiểm nhất, mạnh nhất thời bấy giờ. Giặc Nguyên Mông bấy giờ hung hãn và dã man nhất, vó ngựa của chúng đi tới thảo nguyên nào thì thảo nguyên đó không còn một ngọn cỏ. Sức càn quét và xâm chiếm của chúng khiến cho nhiều nước khác phải kinh sợ. Thế nhưng đất nước ta phải đối mặt với những tên giặc nguy hiểm này thì quân dân nhà Trần không hề sợ sệt. Trên dưới một lòng bảo vệ đất nước giang sơn. Ngọn giáo giống như quốc bảo của người quân tử thời Trần, nó được đo bởi chiều rộng và chiều cao của đất nước. Sứ mệnh của quân dân nhà Trần là bảo vệ đất nước, từ bấy lâu nay vẫn thế há gì gặp giặc ngoại xâm nguy hiểm nhất lại phải chùn bước.

Câu thơ thể hiện ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước và người quân tử thời Trần tự ý thức được trách nhiệm của mình với đất nước. Chính bởi đồng lòng cho nên ba quân của nhà Trần mạnh mẽ như hổ báo, khí thế át cả sao Ngưu trên trời. Khí thế ấy tưởng chừng có thể nuốt hết một con trâu lớn. Hai câu thơ thể hiện sự hào hùng, bất khuất của quân đội nhà Trần. Đó chính là sự thể hiện của hào khí Đông A.


Nếu hai câu thơ đầu, nhà thơ thể hiện hào khí Đông A của một thời đại đầy hào hùng thì đến hai câu thơ cuối nhà thơ bày tỏ nỗi “thẹn” của mình:


“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”


Xưa kia, sinh thời phận làm trai thì phải có công danh và sự nghiệp. Một người nam nhi chân chính là phải có danh với núi sông, có công với đất nước. Chỉ có như thế mới xứng đáng là phận nam tri đầu đội trời chân đạp đất. Cái nợ công danh của nhà thơ vẫn còn trong khi ông đã từng đánh nam dẹp bắc, chặn biết bao nhiêu con đường của giặc đi. Phạm Ngũ Lão – một vị tướng tài ba của nhà Trần thế nhưng ông vẫn khiêm tốn về công danh của mình với vua, với nước. Ông “thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu bởi vì Vũ Hầu cũng là phận bề tôi như ông. Nhưng Vũ Hầu làm được nhiều việc có công lớn với đất nước với vua hơn. Chính vì thế mà dù Phạm Ngũ Lão tài giỏi và hết lòng vì đất nước nhưng bản thân nhà thơ vẫn không cảm thấy hài lòng với những gì mình đã làm. Theo nhà thơ, có lẽ bấy nhiêu thôi chưa đủ để gọi là công danh với đất nước.


Qua đây ta có thể thấy rõ được hào khí Đông A thời nhà Trần và nỗi thẹn của người quân tử, người tướng quân hết lòng ra sinh vào tử vì vua vì nước. Có thể nói hào khí Đông A là yếu tố cơ bản làm nên ba lần chiến thắng giặc nguyên Mông. Đồng thời ta có thể thấy được tấm lòng của vị tướng quân tài ba với đất nước mình. Dẫu có bao nhiêu chiến công hiển hách, Phạm ngũ Lão vẫn thấy chưa đủ để phục vụ cho vua và cho đất nước.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Phân tích “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão để thấy tinh thần yêu nước nồng nàn được thể hiện qua bài thơ.

4. Củng cố:

- Nét đẹp về nghệ thuật và nội dung của bài “Tỏ lòng”.

5. Dặn dò :

- Học thuộc bài và tự giác luyện tập.

- Chuẩn bị bài : “Cảnh ngày hè” (Nguyễn Trãi).

Ngày soạn : 29/11/2017

Tiết 77-78.

CẢNH NGÀY HÈ (1)

Nguyễn Trãi

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

Có kĩ năng phân tích một bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình cảm gắn bó với cuộc sống của người dân.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ

Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là Ức Trai, quê gốc tại làng Ngái (Chi Ngại), huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ông mất ngày 19 - 9 - 1442, tức 16 tháng Tám năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba, trong vụ án Lệ Chi Viên (tức vụ án Trại Vải, huyện Gia Lương, nay thuộc Bắc Ninh), vụ án tru di tam tộc oan khốc nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Ông là nhà văn hoá, nhà thơ lớn của dân tộc, người mở đầu cho sáng tác thơ Nôm ở Việt Nam. Cảnh ngày hè là một trong những bài thơ đặc sắc trong tập Quốc âm thi tập, một tập thơ Nôm được xem là cổ nhất.

2. Về Quốc âm thi tập

-       Là tập thơ Nôm sớm nhất còn lại đến hôm nay. Nó là một “bông hoa nghệ thuật đầu mùa” của thơ ca Tiếng Việt.

-       Về nội dung, Quốc âm thi tập phản ánh vẻ đẹp con người Nguyễn Trãi (lí tưởng nhân nghĩa; lòng yêu nước, thương dân; tình yêu thiên nhiên, quê hương, con người, cuộc sống,…).

-       Về nghệ thuật, tác giả Quốc âm thi tập vận dụng một cách thành thục thể thơ thất ngôn đường luật của Trung Quốc. Tuy nhiên, có chỗ Nguyễn Trãi lại chen vào một số câu thơ lục ngôn thích hợp (một sự phá cách trong sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ).

Bài thơ Cảnh ngày hè thể hiện vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi. Bài thơ mang vẻ đẹp bình dị, tự nhiên, có sự đan xen câu lục ngôn (sáu chữ) và bài thơ thất ngôn (bảy chữ).

3. Bài thơ “Cảnh ngày hè”

3.1. Mạch cảm xúc của bài thơ

Từ thư thái, thanh thản pha sắc thái bất đắc dĩ, có phần chán ngán đến hứng khởi, phấn chấn đó là mạch cảm xúc của Cảnh ngày hè.

3.2. Bức tranh mùa hè

Cảnh ngày hè hiện ra thật đẹp, đầy sức sống với những chi tiết cụ thể, sinh động: tán hoè xanh thẫm che rợp, thạch hựu bên hiên nhà còn phun màu đỏ, sen hồng trong ao ngát mùi hương, tiếng lao xao vọng lại từ làng chài, tiếng ve như tiếng đàn vang dội lên. Bức tranh cho thấy sức sống sinh sôi, rạo rực khắp nơi nơi.

3.3. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ

Miêu tả cảnh ngày hè, tác giả đã sử dụng các động từ, tính từ, từ láy giàu sức gợi hình tượng và cảm giác. Ở câu 2, 3, 4, 5, 6 là các từ: đùn đùn, giương, phun, đỏ, tiễn, lao xao, dắng dỏi. Từ đùn đùn gợi tả sắc xanh thẫm của tán hoè lớp lớp, liên tiếp tuôn ra, giương rộng ra; từ phun gợi sự nổi bật, bắt mắt của màu đỏ hoa lựu; tiễn (ngát, nức) gợi tả sức lan toả của hương sen; từ lao xao, dắng dỏi đảo lên trước chợ cá, cầm ve làm nổi bật âm sắc rộn ràng, râm ran rất riêng của mùa hè. Dưới cái nhìn của tác giả, những sự vật vốn tĩnh trở nên động. Chuyển tĩnh thành động, sự cảm nhận cảnh ngày hè của nhà thơ bộc lộ rõ tình yêu sự sống sinh sôi, cái động của thiên nhiên, cảnh vật phản ánh cái động trong lòng người.

3.4. Nhịp điệu và tiết tấu giàu sức gợi tả

Bức tranh ngày hè sinh động không những được gợi tả bằng hình ảnh màu sắc, âm thanh, sự chuyển động tinh tế của sự vật mà còn thể hiện ở nhịp điệu, tiết tấu. Với đặc điểm về số câu (8 câu), cách gieo vần (cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8), lối đối ngẫu ở hai liên giữa (cặp câu 3 – 4, 5 – 6) thì vẫn thấy đây là bài thơ thất ngôn bát cú. Nhưng bài thơ có một số điểm khác so với thất ngôn bát cú Đường luật:

-       Câu 1 và câu 8 chỉ có sáu chữ nên chúng thành những câu độc lập, không gắn với câu 2 và câu 7 thành liên như thể thơ Đường luật.

-       Đa dạng hơn về nhịp điệu:

+         Câu 1: 1 / 2 / 3

+         Câu 2: 4 / 3 (hoặc 1 / 3 / 3)

+         Câu 3: 3 / 4

+         Câu 4: 3 / 4

+         Câu 5: 2 / 2 / 3

+         Câu 6: 2 / 2 / 3

+         Câu 7: 3 / 4

+         Câu 8: 3 / 3.

3.5. Tâm sự của nhà thơ

Sắc thái của cảnh vật trong bức tranh về sự sống mùa hè đã cho thấy tâm trạng phấn chấn trước vẻ đẹp của cuộc sống đã “phá vỡ” cái tĩnh tại của cuộc sống nhàn dật thuần tuý, qua đó bộc lộ niềm quyến luyến, thiết tha lớn với cuộc đời. Nỗi lòng của nhà thơ đối với đời, với cuộc sống nhân dân hiện ra rõ nét ở hai câu cuối bài. Ông nói đến cây đàn của Ngu Thuấn với mong ước thanh bình, no đủ cho muôn dân. Niềm tha thiết, gắn bó với đời được cụ thể bằng niềm mong mỏi giàu đủ cho nhân dân. Ngay cả trong không gian nhàn dật, ý thức nhập thế, giúp đời luôn thường trực trong tâm hồn Nguyễn Trãi.

3.6. Cảnh và tình trong bài thơ được kết hợp hài hoà.

Tả cảnh ngày hè, bài thơ là một bức tranh tràn đầy sức sống. Sức sống của sự vật trong trong bức tranh tả cảnh mùa hè cũng thể hiện cảm xúc, niềm yêu đời trong tâm hồn nhà thơ. Cảnh gợi cảm xúc, cảm xúc chi phối cái nhìn và tái hiện cảnh vật.

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu, đủ khắp, đòi phương.

Câu hỏi:

1.Câu thơ “Rồi hóng mát thuở ngày trường” gợi điều gì về nhân vật trữ tình?

a,Con người bon chen, tất bật

b.Con người nhàn nhã thư thái

c.Con người vất vả mệt mỏi

d.Con người buồn bã, đau khổ

2. Xác định các loài hoa và màu sắc đặc trưng của từng loài? cảnh ngày hè được miêu tả như thế nào?

3.Câu thơ:Lao xao chợ cá làng ngư phủ sử dụng biện pháp tu từ nào? Tác dụng của biện pháp đó?

4.Từ láy “lao xao” có tác dụng biểu hiện cuộc sống như thế nào?

5.Nội dung chủ đạo mà anh/chị cảm nhận được từ bài thơ Cảnh ngày hè là gì?

6. Viết đoạn văn ( khoảng 10 dòng) miêu tả cảnh ngày hè theo cảm nhận của em.

Đáp án:

1.b.Con người nhàn nhã thư thái

2.Hoa hòe màu xanh, hoa lựu đỏ, hoa sen hồng

-Cảnh tươi tắn, rực rỡ…

-Cảnh bình dị, đặc trưng cho mùa hè ..

3.Biện pháp đảo ngữ :Đưa 2 từ láy ” lao xao” và “dắng dỏi” lên đầu câu

Tác dụng: miêu tả âm thanh sôi động của cuộc sống

4. “lao xao” : từ láy tượng thanh, miêu tả âm thanh huyên náo của chợ cá, cuộc sống no đủ, thái bình của người dân chài lưới.

5.Nội dung chủ đạo: Tâm hồn yêu thiên nhiên, khát vọng cao cả gắn liền với tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi.

6.Học sinh viết đoạn văn theo yêu cầu của đề  ( khoảng 10 dòng), nội dung có thể tham khảo trong bài thơ hoặc tự nghĩ. Diễn đạt lưu loát.

Đề 2.

Cảm nhận bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.

Bài làm :

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng dành những lời trân trọng nhất “Nguyễn Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại…” Vẻ đẹp ấy của hồn thơ Nguyễn Trãi đã được phác họa qua những vần thơ của “Cảnh ngày hè”, một trong số bài thơ của chùm thơ 61 bài “Bảo kính cảnh giới”. Ở đó, ta không chỉ bắt gặp một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước thiên nhiên của một người nghệ sĩ mà còn thấy được một tấm lòng luôn cháy sáng vì nước vì dân của vị anh hùng dân tộc.

Thiên nhiên vốn là mảnh đất vô cùng màu mỡ của biết bao thi nhân trung đại cày xới và cũng là nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn Nguyễn Trãi .Nhà thơ sống giữa thiên nhiên, bầu bạn cùng thiên nhiên, và lấy từ thiên nhiên những bài học quý giá làm “gương báu răn mình” để rồi ghi lại trong tập thơ “Bảo kính cảnh giới”. Một nhân cách thanh cao “tỏa sáng tựa sao khuê”, một tấm lòng cao cả, vẫn luôn tha thiết với nhân dân, với đất nước dẫu trong tình cảnh ngặt nghèo bị nghi kị, dèm pha hay ngay cả khi có cuộc sống yên bình, nên thơ giữa thiên nhiên của Nguyễn Trãi đã đến với người đọc chính qua những vần thơ ấy. Tám câu thơ của “Cảnh ngày hè” đã góp thêm nét vẽ để bức chân dung tâm hồn của Ức Trai hiện lên rõ nét nhất.

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã dẫn chúng ta đến với một bức tranh thiên nhiên rực rỡ, tràn trề sự sống của mùa hè, đến với một không khí náo nhiệt, rộn ràng của cuộc sống thường nhật vẫn đang tiếp diễn.

Rồi, hóng mát thuở ngày trường

Câu thơ mở đầu cho bài thơ tác giả đã giới thiệu về hoàn cảnh hưởng “nhàn” bất đắc dĩ của mình.Lời thơ biểu đạt sự nhàn hạ trong một ngày hè của một con người không bị vướng bận bởi điều gì với nhịp của chữ “rồi” tách riêng khỏi nhịp của câu thơ như nhấn mạnh sự rảnh rỗi của nhà thơ. Nhưng khi đọc sâu, ngẫm kĩ vào từng câu chữ ta lại cảm nhận được tiếng thở dài trong câu thơ. Cụm từ “thuở ngày trường” trong câu đầu có cùng nghĩa với “hạ nhật trường” trong một câu thơ của Cao Biền thời Đường:

Lục thu âm nồng hạ nhật trường”
(Cậy xanh bóng rợp ngày hè dài)

Bài thơ được viết trong thời gian Nguyễn Trãi an nhàn lui về ở ẩn xa dời chốn bon chen đầy cám dỗ của quan trường, và như thế nhà thơ đã có cơ hội để cảm nhận trọn vẹn cái “ngày hè dài” ấy. Thế nhưng liệu đó có phải chỉ là những cảm quan về thời gian, ngày tháng? Hay đằng sau hai chữ “ngày trường” cùng với nhịp thơ như trải dài ấy còn là tâm trạng nhân vật trữ tình, những nỗi niềm của Ức Trai chăng? Và phải chăng tất cả những tâm tư ấy đang dồn nén vào trong bức tranh thiên nhiên ngày hè mãnh liệt và căng tràn sức sống trước mắt và được nhà thơ nâng niu ghi lại:

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Chỉ trong ba câu thơ hàm súc tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh mùa hè rực rỡ với những gam màu đậm, tươi tắn cùng những hình ảnh đặc trưng của mùa hè. Bao trùm lên bức tranh ấy chính là những “chiếc lọng” xanh biếc của tán hòe đang bung sắc như làm dịu đi cái chói chang, gay gắt của nắng hè. Đặt điểm nhìn xuống thấp hơn, nhà thơ đã khéo léo đan cài màu đỏ rực rỡ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen đang tỏa hương thơm ngát lan tỏa khắp không gian. Nếu thơ ca cổ điển ưa những gam màu trầm hơn là những sắc gắt, ưa tả tĩnh hơn tả động thì Nguyễn Trãi đã dám bước qua cái khuôn khổ ấy để thoát khỏi những bức tranh thanh đạm, tiêu sơ và để đến gần hơn với bức tranh cảnh ngày hè tươi vui, đầy sức sống. Nhà thơ không chỉ cảm nhận được hình sắc của thiên nhiên tạo vật mà còn nhận thấy một mạch sống đang ứa căng, tràn trề, đang đùn đùn phun ra những sắc xanh, sắc đỏ của hoa lá, cỏ cây. Thiên nhiên của Nguyễn Trãi hiện lên qua những động từ mạnh “đùn đùn”, “phun”, “tiễn” “giương” như đang trào dâng một sức sống nội sinh mãnh liệt, mạnh mẽ ẩn sâu bên trong mỗi tạo vật. Hòe không được miêu tả như một vật thể thông thường mà nó được đặt trong sự vận động, phát triển của tự nhiên. Ao sen cũng không chỉ gợi một thứ hương dịu nhẹ mà còn thể hiện sự lan tỏa, sự chuyển động của mùi hương ấy khắp không gian. Đều lấy tâm điểm là những bông hoa thạch lựu đỏ như những đốm lửa nhưng nếu Nguyễn Du gợi tả được màu sắc qua phép điệp âm”lửa lựu lập lòe” trong câu thơ “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (Truyện Kiều) thì hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi còn có cả nhựa sống dồi dào bên trong đang “phun” tỏa, phát lộ ra ngoài. Cái sinh khí rực rỡ, viên mãn nhưng cũng rất thanh thoát ý vị ấy khác hẳn với cái nóng nực của mùa hè mà các nhà thơ trong “Hồng Đức quốc âm thi tập” đã biểu hiện:

Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè

Phải chăng chính nhà thơ đã mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận cuộc sống, để phát hiện ra cái thế giới bên trong đang tuôn tràn của thiên nhiên, và cái vận động không ngừng trong tự nhiên.

Nhưng trong thi của Nguyễn Trãi không chỉ có họa, có hương mà còn có cả những thanh âm muôn vẻ của cuộc sống thường nhật.

Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Thiên nhiên không hề u ám, trầm lặng khi nắng chiều buông mà trái lại, rất rộn rã và sôi động. Nhà thơ đã đưa vào bức tranh của mình những hình ảnh vô cùng quen thuộc, gần gũi nhưng lại không đi theo khuôn sáo, lối mòn nào. Hai từ láy “lao xao”, dắng dỏi được đảo lên đầu mỗi câu thơ làm bật lên cái âm thanh sôi động, náo nhiệt, xóa tan không khí quạnh hiu, cô tịch lúc ‘tịch dương”. Cảnh phiên chợ – một dấu hiện của sự sống con người hiện ra trong câu thơ với tiếng người mua, kẻ bán, tiếng cười nói, tiếng chuyện trò gian thật bình yên và ấm áp! Nhà thơ không hề thoát tục, không hề xa dời cuộc sống mà là đang hướng lòng mình về với cuộc sống bình dị từ những âm thanh bình dị nhất. Nhà thơ như căng mở hết tất cả những giác quan cả thị giác, khứu giác, thính giác và cả những liên tưởng bất ngờ “dắng dỏi cầm ve”. Tiếng ve inh ỏi – một thứ âm thanh không xa lạ với mùa hè được ví như một cung đàn mùa hạ tấu lên một cách rộn ràng hòa chung với bản đàn rạo rực, hối hả của nhịp sống căng tràn trong thiên nhiên. Lời thơ như diễn tả một cuộc sống đang sinh sôi, tiếp diễn ngay cả khi ngày sắp tàn, một khung cảnh thật êm đềm và thanh bình nơi làng quê. Cùng viết về mùa hè nhưng những cảm xúc trong mỗi bài thơ lại đem đến một mùa hè khác nhau.

Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay tơi tả

Nếu như ta cảm nhận được mùa hè rộn ràng, náo nhiệt trong những vần thơ Ức Trai thì mùa hè của Nguyễn Khuyến oi nồng và có phần u uất. Bởi, với “Cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi đã cảm nhận thiên nhiên sự sống bằng chính sức sống dồi dào trong tâm hồn mình, bằng sự tha thiết với cuộc sống còn Nguyễn Khuyến đã mượn mùa hè để dãi bày những bức bối, u uất của mình đúng như tên bài thơ “Than mùa hè”. Thi nhân như đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống với một tâm hồn thiết tha yêu thiên nhiên để rồi từ đó thổi bùng lên khát vọng bấy lâu nay của một con người luôn hết lòng vì đất nước.

Sống giữa vòng tay bình yên của mẹ thiên nhiên, giữa cuộc sống “vô ưu vô tư” nhưng chưa giây phút nào Nguyễn Trãi quên đi bổn phận của mình:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương

Sâu trong tâm khảm, Ức Trai luôn mang một nỗi niềm dân nước, một hoài bão về sự an thịnh như thời Đường Ngu nên đã mượn điển tích Ngu cầm để nói lên tấm lòng của mình. Liệu có phải nhà thơ muốn có cây đàn Ngu cầm để gẩy nên khúc Nam Phong để ngợi ca cảnh thái bình, thịnh trị đang hiện hữu mà tiếng lao xao của cuộc sống bình yên đã dẫn dắt đến tâm sự ấy? Hay đó chỉ là những ước mong, khao khát ở phía trước của nhà thơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của dân nước? Dù hiểu theo cách nào thì người đọc đều cảm nhận được tấm lòng “ưu dân ái quốc” của nhà Nguyễn Trãi mà trong một bài thơ khác, Ức Trai cũng đã nhắc tới sở nguyện này:

Dân Nghiêu Thuấn, vua Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền

Những lời thơ vô cùng giản dị và mộc mạc được cất lên từ một tấm lòng rất đỗi chân thành, một con tim luôn cháy bỏng tình yêu với đất nước, với nhân dân. Nguyễn Trãi rảnh rỗi nhưng không hề thanh thản, ông nhàn thân nhưng không nhàn tâm, trong lòng nhà Nho chân chính ấy luôn canh cánh nỗi niềm dân nước:

Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu
Hậu thiên hạ chi lạc ưu lạc

Nguyễn Trãi luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên hàng đầu với một niềm mong mỏi rất cao cả “khắp nơi không một tiếng oán hờn”. Nếu như với Nguyễn Bỉnh Khiêm “nhàn” là tránh xa phú quý quay về hòa hợp với thiên nhiên để giữ trọn cốt cách thì qua “Cảnh ngày hè”, vị anh hùng dân tộc đã khẳng định triết lí “nhàn” của mình: Sự nhàn rỗi, thảnh thơi luôn phải song hành với cuộc sống no đủ, bình yên. Chính kết cấu đầu cuối tương ứng của hai câu lục ngôn ở đầu và cuối tác phẩm đã khép mở hai tâm trạng tạo nên mạch hàm ẩn của toàn bài thơ.

“Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn với nhịp thơ đa dạng và linh hoạt. Bài thơ đã thoát khỏi tính quy phạm khuôn thước của văn học trung đại bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh sinh động, qua cách miêu tả thiên nhiên và đặc biệt là việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng các động từ mạnh, các từ tượng thanh được sử dụng liên tiếp làm cho bức tranh mùa hè không phải là hình ảnh tĩnh trên trang giấy mà căng tràn nhựa sống. Nguyễn Trãi đã đưa ngôn ngữ thơ ca về gần với ngôn ngữ đời sống, mở đường cho khuynh hướng dân tộc hóa, bình dị hóa của thơ ca Việt Nam sau này. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ đã được Nguyễn Trãi tái hiện một cách đầy chân thực và sinh động. Nhưng đọc bài thơ, ta không chỉ đơn thuần thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên mùa hè rực rỡ, sống động mà còn cảm nhận được vẻ đẹp phong phú, thanh cao của hồn thơ Nguyễn Trãi. Một hồn thơ đã bắt rễ sâu vào đời sống thiên nhiên, một cảm xúc thơ đã hòa nhịp với mạch sống nhân dân, dân tộc.

Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định rằng “Thơ khởi phát từ trong lòng người ta”. Quả thực không có những cảm xúc, những tâm sự sâu kín nén chặt, chất chứa trong lòng sẽ chẳng bao giờ có thơ. Qua “Cảnh ngày hè” ta không chỉ ngưỡng mộ tài năng của nhà văn hóa lớn mà ta còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, tiếng yêu quê hương, dân tộc của Ức Trai tiên sinh tha thiết hơn bao hết.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

“Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta đã bắt gặp tâm hồn một con người”.

Anh/ chị hãy làm rõ ý kiến trên qua bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.

4. Củng cố:

- Nét đẹp về nghệ thuật và nội dung của bài thơ “Cảnh ngày hè”.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng và diễn cảm bài thơ “Cảnh ngày hè”.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 03/12/2017

Tiết 79-80.

CẢNH NGÀY HÈ (2)

Nguyễn Trãi

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

Có kĩ năng phân tích một bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình cảm gắn bó với cuộc sống của người dân.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ

Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

“Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta đã bắt gặp tâm hồn một con người”.

Anh/ chị hãy làm rõ ý kiến trên qua bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.

Hướng dẫn :

Nêu được vấn đề cần nghị luận: Đọc thơ hiểu được vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ;  Tâm hồn Nguyễn Trãi qua “Cảnh ngày hè” : tinh tế, nhạy cảm,có tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người sâu nặng.

Giải thích nhận định: “Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta đã bắt gặp tâm hồn một con người”.

– Giải nghĩa từ ngữ: “đọc”(tìm hiểu, suy ngẫm), “câu thơ hay”(có giá trị nội dung, nghệ thuật), “bắt gặp”(phát hiện ra, đồng cảm), “tâm hồn”(con người tinh thần bên trong con người)

– Khái quát ý nghĩa: Tìm hiểu thơ, người đọc sẽ thấy được con người bên trong – con người tinh thần của nhà thơ

Phân tích – chứng minh: “Cảnh ngày hè”  thể hiện tâm hồn Nguyễn Trãi

- Sự yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, phát hiện sức sống căng tràn của thiên nhiên mùa hè.

– Sự giao cảm với cuộc sống bình yên, no ấm của nhân dân, niềm khát khao mong ước “Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

– Sự tinh tế, nhạy cảm của một tâm hồn nghệ sĩ đích thực.

“Đó là niềm vui lớn cộng với nỗi đau dài

               Tích lại đời thành chất ngọc Ức Trai.” (Phạm Hổ)

Đánh giá chung về vấn đề cần nghị luận: “Văn học là nhân học” (M. Gorki)

- Thơ ca, nghệ thuật là nơi người nghệ sĩ giãi bày tâm tư, cảm xúc, rung động trước cuộc đời.

– Tác phẩm biểu hiện tâm hồn nhà thơ, vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ là cội nguồn tạo nên vẻ đẹp, giá trị tác phẩm.

– Đọc thơ hay, gặp gỡ tâm hồn người nghệ sĩ, người đọc thơ được thanh lọc, hoàn thiện tâm hồn mình.

Đề 2.

Cảm nhận của anh (chị) về bức tranh thiên nhiên mùa hè trong bài thơ Cảnh ngày hè

Bài làm

   Nguyễn Trãi (1380 - 1442), vị anh hùng dân tộc, "tấm lòng sáng tựa sao Khuê" (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.

   Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm "ưu quốc ái dân". Suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn.

   Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường"

   Nhịp thơ thật lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày "ăn không ngồi rồi": tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối thành một hơi thở như tiếng thở dài. Rõ ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự. Hai chữ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đã dồn nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mãnh liệt đầy sức sống:

"Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"

   Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hòe buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ đùn đùn, vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ rợp. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống.

   Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

   Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ lao xao đến dắng dỏi. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. Lao xao là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hưởng nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyễn Trãi dã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phủ để thấy bản thân không xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dễ tạo cho nhà thơ nỗi buồn, cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ - bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mĩ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã chung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vẫn đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi trong bài thơ “Cảnh ngày hè” .

4. Củng cố:

- Nét đẹp về nghệ thuật và nội dung của bài thơ “Cảnh ngày hè”.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng và diễn cảm bài thơ “Cảnh ngày hè”.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 05/11/2017

Tiết 81-82.

CẢNH NGÀY HÈ (3)

Nguyễn Trãi

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

Có kĩ năng phân tích một bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình cảm gắn bó với cuộc sống của người dân.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ

Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

ĐỀ 1:

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi trong bài thơ “Cảnh ngày hè” .

A. YÊU CẦU ĐỀ:
- Dạng đề “mở”, nội dung nghị luận về một khía cạnh bài thơ.
- Luận đề: Vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ.
- Luận điểm:
+ Vẻ đẹp tình yêu thiên nhiên và cuộc sống cảnh ngày hè.
+ Vẻ đẹp của lòng yêu nước thương dân.
- Thao tác lập luận và dẫn chứng: có thể dùng thao tác phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận, nêu cảm nghĩ,…Dẫn chứng chủ yếu dùng trong bài “Cảnh ngày hè”.
B. THAM KHẢO BÀI VIẾT:
I. MỞ BÀI: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận (luận đề).
Nguyễn Trãi để lại cho nhân loại một di sản văn chương vô giá. Nếu như ta biết đến “Đại cáo bình Ngô” như một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc thì với “Cảnh ngày hè”, người đọc được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên ngày hè và đặc biệt là vẻ đẹp tâm hồn thi nhân.
II. THÂN BÀI:
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm:
Nhắc đến Nguyễn Trãi là người ta nghĩ ngay đến một nhà quân sự, một nhà chính trị tài ba lỗi lạc đã dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cứu nước cứu dân. Nhưng bên cạnh nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao là một Nguyễn Trãi nghệ sĩ với những xúc cảm tinh tế và tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người. Con người văn võ song toàn ấy đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị mà một trong số đó là “Cảnh ngày hè”. Bài thơ dựng lên một bức tranh thiên nhiên sống động với âm thanh, hương sắc và cả những gam màu rực rỡ mà ẩn sâu trong đó là bức chân dung tinh thần của nhà thơ giữa cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã.
2. Nội dung cần phân tích, cảm nhận:
a. Vẻ đẹp của tình yêu thiên nhiên và cuộc sống cảnh ngày hè:
Mở đầu bài thơ là tư thế của nhân vật trữ tình:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Nhịp thơ 1/5 thật lạ lùng cho thấy cảm giác của con người trong một ngày rỗi rãi. Thi nhân ngồi hóng mát trước hiên nhà nhưng vốn không phải là người thích chìm đắm vào thiên nhiên để quên hết việc đời nên điều đó không mang lại cho ông cảm giác thanh thản hay nhẹ nhõm thực sự. Vậy nên mới có cảm giác “ngày trường”, nghĩa là ngày dài, vô vị và buồn chán. Các nhà thơ xưa thường dồi dào cảm hứng trước mùa xuân, mùa thu nhưng Nguyễn Trãi lại chọn cho mình một đề tài riêng – vẻ đẹp của mùa hè. Và với một tâm hồn yêu thiên nhiên, một hồn thơ phóng khoáng cùng với xúc cảm tinh tế, nhà thơ đã mang đến cho ta một bức tranh thiên nhiên mùa hạ tuyệt đẹp:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Trước tiên là màu xanh tươi mát, tràn đầy sức sống của cây hòe. Màu lá hòe như trải rộng, che mát cả một khoảng sân nhỏ. Từ láy “đùn đùn” gợi cảm giác như nhựa sống đang ứa căng, tràn đầy và trào lên trong từng nhánh lá. Phía bên hiên nhà, màu đỏ của hoa lựu càng thơm rực rỡ. Màu đỏ ấy dường như không ở trong trạng thái tĩnh mà đang vận động, phun trào, bừng sáng giữa đám lá xanh. Sắc đỏ rực rỡ của hoa lựu gợi ta nhớ đến hai câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”:
“Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”
Hình ảnh “lửa lựu lập lòe” và hình ảnh “thạch lựu phun thức đỏ” cho thấy Nguyễn Trãi và Nguyễn Du đều là những tâm hồn nghệ sĩ rất mực tinh tế. Nếu như Nguyễn Du thiên về tả màu sắc thì Nguyễn Trãi tập trung miêu tả sức sống nhiều hơn. Màu sắc của hoa cũng gợi lên sức sống của mùa hạ. Dưới ao nhà, sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng đặc trưng và hương thơm ngào ngạt. Nếu như ở câu thơ đầu là một tâm sự chán chường thì giờ đây, tất cả những tâm sự dồn nén ấy khi bắt gặp cảnh thiên nhiên tươi đẹp, rực rỡ và đầy sức sống đã nhường chỗ cho những cảm xúc vui tươi, sự say mê. Sự sinh động của thiên nhiên đã được thể hiện trong từng đường nét, màu sắc, âm thanh của bức tranh mùa hè. Bức tranh ấy không chỉ có sắc, có hương mà còn có cả những âm thanh bình dị của đời sống:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”
Từ “lao xao” gợi âm thanh từ xa vọng lại, không nghe rõ nhưng vẫn đủ để lại dư âm. Đó phải chăng chính là âm thanh của cuộc sống thường nhật nơi làng chài? Còn gì thân quen hơn cảnh chợ cá với cái “lao xao” của kẻ bán người mua? Tiếng ve kêu inh ỏi như thôi thúc thêm những sắc màu còn lại của mùa hè tiếp tục căng tràn và bung nở. Sự xuất hiện của tiếng ve như xua tan đi sự tĩnh lặng của căn lầu lúc mặt trời sắp lặn. Bức tranh thiên nhiên ngày hè được tác giả thu nhận bằng cả thính giác, thị giác và khứu giác. Cảnh ngày hè trong thơ Nguyễn Trãi hiện ra rộn rã, vui tươi và tràn đầy sức sống. Phải chăng chính tình yêu thiên nhiên và tâm hồn nhạy cảm đã giúp nhà thơ cảm nhận, quan sát và miêu tả cảnh ngày hè một cách tinh tế, sinh động?
b. Vẻ đẹp của lòng yêu nước thương dân:
Nguyễn Trãi vui với thiên nhiên, với cuộc sống của con người nhưng điểm nổi bật nhất trong bài thơ vẫn là tấm lòng, tình đời của con người mà lòng yêu nước thương dân đã trở thành nỗi trăn trở, niềm ưu ái trong suốt cuộc đời. Khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống của con người trong ngày hè đã mở ra trong lòng nhà thơ ước vọng tha thiết:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.”
Hai câu cuối như kết đọng bao suy tư của nhà thơ. Trước cảnh ngày hè tràn ngập sắc màu và âm thanh, Nguyễn Trãi ước muốn có một cây đàn của vua Thuấn để tấu lên khúc nhạc “Nam phong” cầu cho nhân dân giàu đủ khắp muôn nơi. Câu thơ nặng trĩu nỗi day dứt và một tinh thần trách nhiệm cao cả. Ước nguyện của Nguyễn Trãi làm ta liên tưởng đến khát khao của Đỗ Phủ:
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
(Bài ca nhà tranh bị gió thu phá)
Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi đã gặp nhau trong nhận thức, trong tư tưởng, trong tâm sự ưu thời mẫn thế. Vậy ra, từ trước đến nay, Nguyễn Trãi chỉ nhàn thân chứ không nhàn tâm. Dù ở bất cứ đâu, chốn quan trường hay nơi thôn dã thì thi nhân vẫn đau đáu một nỗi băn khoăn, trăn trở lo nước, thương đời. Suốt đời ông theo đuổi khát vọng đem lại cho nhân dân một cuộc sống ấm no, hạnh phúc để cho ở bất cứ nơi đâu dù là chốn thị thành hay nơi thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận, oán sầu. Tình yêu nước, yêu dân trong con người ấy trong sáng, chân thành đến mức thuần khiết. Đó cũng là tinh thần, là tư tưởng nhân đạo sâu và vững trong cốt cách của nhà thơ.
3. Đánh giá chung:
“Thơ phát khởi từ lòng người ta” (Ngô Thì Nhậm). Đọc một bài thơ hay là ta bắt gặp tâm hồn của một con người, cảm nhận được bao tâm tư, tình cảm ẩn trong từng con chữ. Bài thơ “Cảnh ngày hè” không chỉ cho ta thấy bức tranh thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống của cảnh sắc ngày hè mà còn phác họa thành công chân dung tinh thần của chính tác giả - người anh hùng, người nghệ sĩ tài hoa. Đó là con người say đắm trước vẻ đẹp thiên nhiên, thiết tha với sự sống, khao khát mang đến cho người dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh nội dung đặc sắc, “Cảnh ngày hè” còn rất thành công về mặt nghệ thuật. Nguyễn Trãi đã sáng tạo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, đưa chữ Nôm trở thành ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức biểu cảm, biểu nghĩa. Ông cũng đưa vào thơ những hình ảnh dân dã, gần gũi, bình dị, rất đỗi Việt Nam: hình ảnh “chợ cá” và âm thanh “lao xao” của đời thường là những nét hiện thực rất dân dã mà văn chương cổ điển thường kiêng kị, cho là dung tục, không gợi sự thanh cao. Đó chính là điểm mới, những cách tân về nghệ thuật của Nguyễn Trãi trong bài thơ “Cảnh ngày hè”.
III. KẾT BÀI: Nêu cảm nghĩ của bản thân. 
Phải nói rằng, đến với “Cảnh ngày hè” chúng ta không chỉ được chiêm ngưỡng bức tranh thiên nhiên độc đáo mà còn cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và đặc biệt là nỗi lòng thao thức, trăn trở vì nước, vì dân của nhà thơ. Vẻ đẹp trong nhân cách sáng ngời của nhà thơ cũng chính là chiều sâu nhân bản trong tâm hồn con người vĩ đại này. Chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi đã hiện lên thật trọn vẹn và để lại cho người đọc thật nhiều cảm xúc. Không hiểu sao mỗi khi đọc bài thơ “Cảnh ngày hè”, bên tai tôi lại văng vẳng hai câu thơ của Ức Trai:
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.”
(Thuật hứng – bài 2)

THAM KHẢO NHỮNG CÁCH MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI KHÁC

I. MỞ BÀI:
“Nhắc đến tên ông là thấy thơ
Như một nguồn thiêng chẳng bến bờ”
(Tế Hanh)
Có thể nói cuộc đời Nguyễn Trãi gắn liền với sự nghiệp văn chương của ông. Nếu như thời chống Minh dâng “Bình Ngô sách”, Nguyễn Trãi tích cực thực hiện tư tưởng nhân nghĩa bằng những áng “thiên cổ hùng văn” thì đến lúc về ẩn, ông lại gửi gắm tâm sự của mình qua những bài thơ trữ tình. Khác với những vần thơ hào hùng, đầy nhiệt huyết và lòng tự tôn dân tộc như “Bình Ngô đại cáo”, những lí lẽ đanh thép, sắc sảo trong “Quân trung từ mệnh tập”, bài thơ “Cảnh ngày hè” (Bảo kính cảnh giới – bài 43) thực sự là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của một người nghệ sĩ, một người suốt đời yêu nước thương dân.

II. KẾT BÀI: 
Bài thơ “Cảnh ngày hè” (Bảo kính cảnh giới – bài 43) là một thi phẩm đặc sắc, tuy thuộc nhóm “Gương báu răn mình” nhưng không hề khô khan mà rất giàu cảm xúc. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nghệ sĩ giàu rung cảm, có tấm lòng yêu đời tha thiết và tư tưởng, khát vọng của một nhân cách lớn. Thi phẩm cũng khẳng định vị trí của Nguyễn Trãi trong quá trình phát triển của thơ Nôm Việt Nam thời trung đại.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Phân tích nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ “Cảnh ngày hè” (Nguyễn Trãi).

4. Củng cố:

- Nét đẹp về nghệ thuật và nội dung của bài thơ “Cảnh ngày hè”.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng và diễn cảm bài thơ “Cảnh ngày hè”.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 06/12/2017

Tiết 83-84.

CẢNH NGÀY HÈ (4)

Nguyễn Trãi

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

2. Kĩ năng:

Có kĩ năng phân tích một bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình cảm gắn bó với cuộc sống của người dân.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ

Kiểm tra bài tập về nhà của học sinh.

3. Bài mới

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1. Phân tích nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.

Bài làm :
Một bài hát hay không chỉ lời ca giàu ý nghĩa biểu đạt được sáng tác bởi một nhạc sĩ nổi tiếng mà còn phải có một giai điệu hấp dẫn, thu hút người nghe. Một con người hoàn thiện tốt đẹp không chỉ đẹp về ngoại hình mà còn phải đẹp về tâm hồn, đẹp bởi những việc làm tốt trong cuộc đời họ. Một bài thơ hay không chỉ có nội dung đời sống ý nghĩa mà còn phải có những nét đặc sắc về nghệ thuật. Nội dung và nghệ thuật là hai phạm trù luôn luôn phải đi liền với nhau, hỗ trợ lẫn nhau để tạo nên một tác phẩm hay. Bài thơ cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi là một bài thơ không chỉ giàu ý nghĩa về mặt nội dung mà còn được thể hiện bằng nhiều nét nghệ thuật đặc sắc.


Với mục đích thể hiện tâm trạng của bản thân khi trở về quê ở ẩn và miêu tả bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè, đồng thời qua đó thể hiện tâm nguyện của mình, nhà thơ đã sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Cả bài thơ gồm tám câu thơ mỗi câu có bảy tiếng. Bố cục bài thơ chia thành bốn phần rõ ràng: đề, thực, luận, kết. Mỗi phần đảm nhiệm một nhiệm vụ truyền tải nội dung cụ thể đến độc giả, phần này là tiên đề cho phần sau, phần sau bổ sung cho phần trước, hỗ trợ lẫn nhau tạo nên một kết cấu thơ chặt chẽ:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Ở đây, nhà thơ giới thiệu về hoàn cảnh cá nhân sau khi cáo quan về quê ở ẩn. Nguyễn Trãi từ một người luôn bận rộn với công việc trọng trách cao trở thành một người nhàn hạ, rồi rãi ngồi ngắm cảnh mùa hè. Ban đầu tác giả ngắm những lớp hoa hòe mọc trên bức giương. Hai câu đề như giới thiệu hoàn cảnh của tác giả. Chuyển sang hai câu thực, nhà thơ miêu tả rõ hơn về cảnh thiên nhiên ngày hè, hai câu luận hướng tới âm thanh cuộc sống và hai câu kết thể hiện ước vọng của mình. Từng cặp câu một kết hợp với nhau để thể hiện một phạm vi nội dung cụ thể. Trước sự nhàn rỗi, nhà thơ ngắm cảnh thiên nhiên, yêu thiên nhiên, yêu con người tác giả muốn nhân dân sống trong êm đềm, no đủ.
Bên cạnh thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi còn đặc sắc bởi nghệ thuật “thi trung hữu họa”. Nó có nghĩa là bài thơ của Nguyễn Trãi có họa ở trong đó:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Tranh họa thường được vẽ bởi những người họa sĩ có đôi bàn tay khéo léo nhất để thể hiện chính xác nhất những đường nét, màu sắc của hình ảnh. Nhưng ở đây một nhà thơ cũng có thể vẽ lên một bức họa đẹp với chất liệu ngôn từ chứ không phải bằng chất liệu bột màu. Bức tranh cảnh ngày hè có hoa hòe xanh ngát, hòa lựu đỏ rực và những đóa sen hồng thơm ngát. Những loài hoa ấy là những loài hoa biểu trưng cho mùa hè. Nhà thơ đã thật khéo léo khi sắp chúng lại với nhau để tạo nên một bức tranh tươi tắn và sinh động.
Nguyễn Trãi chưa thật sự xuất sắc nếu chỉ dừng lại ở việc sử dụng ngôn từ để vẽ tranh, việc này thì có rất nhiều nhà thơ khác cũng có thể làm được. Nhưng chính bởi vì là một nhà thơ xuất sắc cho nên Nguyễn Trãi đã tinh tế trong việc sử dụng nghệ thuật miêu tả cảnh trong bài thơ của mình. Điều này thì ít có ai làm được giống như ông. Nghệ thuật miêu tả cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi đặc sắc ở chỗ nhà thơ sử dụng những động từ mạnh để diễn tả sự phát triển của thiên nhiên trong bức tranh. Đó là những từ như “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”. Những động từ này thể hiện một cách chính xác nhất sự phát triển mạnh mẽ của thiên nhiên cây cối mùa hè. Chính vì thế bức tranh của nhà thơ giống như một bức tranh động vậy. Cảnh thiên nhiên không chỉ có sự vận động mà còn có âm thanh của cuộc sống. Đó là tiếng “lao xao” của chợ cá và tiếng cầm ve trên lầu tịch dương.
Ngoài những nét đặc sắc nghệ thuật chính trên, nhà thơ còn sử dụng nhiều biện pháp tu từ như đảo cấu trúc câu, dùng những động từ đắt và cách ngắt nhịp linh hoạt theo cảm xúc của chính bản thân mình.
Nhà thơ Nguyễn Trãi thật xuất sắc khi lựa chọn được những hình thức, những đặc sắc nghệ thuật để thể hiện nội dung bài thơ của mình. Chính bởi những nét đặc sắc nghệ thuật này mà người đọc có thể cảm nhận được hết những tâm trạng tình cảm của tác giả, cảm nhận được bức tranh thiên nhiên tươi tắn đầy màu sắc của mùa hè.

Đề 2. Nỗi lòng Nguyễn Trãi qua bài thơ “Cảnh ngày hè”.

Bài làm :

Nguyễn Trãi (1380 - 1442), vị anh hùng dân tộc, “tấm lòng sáng tựa sao Khuê” (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.

     Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm “ưu quốc ái dân”. Suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn.

     Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

     Nhịp thơ thật lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày “ăn không ngồi rồi”: tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối thành một hơi thở như tiếng thở dài. Rõ ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự. Hai chữ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đã dồn nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mãnh liệt đầy sức sống:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

     Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hòe buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ đùn đùn, vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ rợp. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối  hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống.

     Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

      Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ lao xao đến dắng dỏi. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. Lao xao là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hưởng nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyễn Trãi dã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phủ để thấy bản thân không xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dễ tạo cho nhà thơ nỗi buồn, cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ - bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mĩ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã chung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vẫn đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.

    Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muôn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

       Còn gì giản dị, thanh cao, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng minh theo triết lí nhà Nho “độc thiện kì thân”, ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm hoài bão cống hiến cho đất nước thái bình thịnh trị như thời Đường Ngu - xã hội thịnh trị lí tưởng theo quan niệm nho gia. Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về nhân dân. Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn “trong sáng và đầy sức sống” (lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng). Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ. Niềm mong mỏi nhân dân “khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu” chính là minh chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.

       Bảo kính cảnh giới - bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ - chiến sĩ của ức Trai tiên sinh. Tấm lòng “sáng tựa sao khuê” ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay!

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Bàn về thơ, Chế Lan Viên cho rằng: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim.”

Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.

4. Củng cố:

- Nét đẹp về nghệ thuật và nội dung của bài thơ “Cảnh ngày hè”.

5. Dặn dò

- Học thuộc lòng và diễn cảm bài thơ “Cảnh ngày hè”.

- Chuẩn bị bài “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Ngày soạn : 12/12/2017

Tiết 85-86.

NHÀN (1)

-Nguyễn Bỉnh Khiêm-

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc bài thơ Nôm đường luật giàu triết lí.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Trân trọng và học tập nhân cách sống cao đẹp của NBK; lựa chọn được cho mình một thái độ sống tích cực.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành luyện đề.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới:

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng), từng thi đỗ trạng nguyên. Làm quan được tám năm, ông dâng sớ xin chém mười tám kẻ lộng thần nhưng không được chấp nhận. Sau đó ông xin về trí sĩ ở quê nhà, tự đặt tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ, dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân, mở trường dạy học. Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm có tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập, tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi, tập sấm kí Trình Quốc công sấm kí,…

2. Bao trùm trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khi về trí sĩ ở quê nhà là cảm hứng thanh nhàn, tự tại, gắn bó với tự nhiên, không tơ tưởng bon chen phú quý. Cảm hứng ấy được thể hiện bằng ngôn từ giản dị, tự nhiên mà cô đọng, giàu ý vị. Bài thơ Nhàn trích ở tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi tập là một trường hợp tiêu biểu.

3. Với lời thơ tự nhiên, giản dị mà giàu ý vị, bài thơ Nhàn thể hiện được một cách sâu sắc cái thú và ý nghĩa triết lí trong lối sống nhàn dật mà tác giả đã lựa chọn. Đó là quan niệm sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi.

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Phân tích bài thơ “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Gợi ý :

1.  Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh người trí sĩ ẩn cư nhàn dật

Nhân vật trữ tình này xuất hiện trong lời thơ với những chi tiết về cách sống, cách sinh hoạt và quan niệm sống: tự cuốc đất trồng cây, đào củ, câu cá; chọn nơi vắng vẻ, không thích nơi ồn ã; ăn uống, tắm táp thoải mái, tự nhiên; coi phú quý tựa giấc mộng.

2.  Âm hưởng hai câu thơ đầu đã gợi ra ngay cái vẻ thung dung

Nhịp thơ 2/2/3 cộng với việc dùng các số từ tính đếm (một…, một…, một…) trước các danh từ mai, cuốc, cần câu cho thấy cái chủ động, sẵn sàng của cụ Trạng đối với cuộc sống điền dã, và còn như là chút ngông ngạo trước thói đời.

3.  Có thể thấy vẻ đẹp giản dị, tự nhiên của bài thơ ở việc lựa chọn từ ngữ, giọng điệu

Các từ ngữ nôm na, dân dã được sử dụng kết hợp với cách cấu tạo câu thơ như lời khẩu ngữ tự nhiên đã tạo ra nét nghệ thuật độc đáo cho bài thơ. Đúng như nhận xét của Phan Huy Chú: “Văn chương ông tự nhiên nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.

4. Sự đối lập giữa “Ta dại” và “Người khôn” trong câu 3 - 4 mang nhiều hàm ý: vừa để khẳng định sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của tác giả, vừa thể hiện sắc thái trào lộng, thái độ mỉa mai đối với cách sống ham hố danh vọng,  phú quý. Theo đó, cái dại của “ta” là cái “ngu dại” của bậc đại trí, với trí tuệ lớn, thấu triệt lẽ thịnh suy, vong tồn của cuộc đời, sống thanh thản, nhàn dật, thuận lẽ tự nhiên. Cho nên, nơi “ta” chọn là “nơi vắng vẻ”, nghĩa là nơi có thể tĩnh tại, sống an nhàn, không có tranh giành “tư lợi” theo sở thích của “ta”. Còn “người khôn” mà chọn “Đến chốn lao xao”, nghĩa là nơi ồn ã, ở đó con người chen chúc, xô đẩy nhau để giành giật lợi danh, thì lại hoá ra “dại” vậy. “khôn” - “dại”, “nơi vắng vẻ” - “chốn lao xao” là những quan niệm sống, cách lựa chọn rất khác nhau.

5. Ở hai câu 5, 6, tác giả nói đến chuyện “ăn” và “tắm” một cách đầy thích thú

Theo vòng quay bốn mùa quanh năm, việc “ăn”, “tắm” của “ta” thuận theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên; đạm bạc, thanh bần nhưng thú vị, thanh thản.

6. Triết lí nhân sinh

Hai câu thơ cuối bài thể hiện tập trung, sâu sắc quan niệm triết lí nhân sinh của tác giả. Hai câu này lấy tích trong truyện đời Đường. Chuyện kể về Thuần Vu Phần là một viên tướng tài, tính tình phóng khoáng, do xúc phạm thống soái, bị quở mắng nên từ chức về nhà, lấy uống rượu làm vui. Một hôm, Vu Phần say rượu ngủ bên gốc cây hoè, mơ thấy mình được làm phò mã cho vua nước Hoè, được hưởng giàu sang phú quý, tỉnh dậy mới biết đó chỉ là giấc mơ. Tác giả mượn điển tích này để bộc lộ thái độ xem thường phú quý, coi chốn quyền danh phú quý chỉ là giấc chiêm bao, không có thực, qua đó khẳng định thêm một lần nữa sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của riêng mình.

Lánh đời ẩn dật, cách ứng xử đó của tác giả có vẻ tiêu cực. Nhưng trong hoàn cảnh nào đó, khi muốn giữ gìn nhân cách, sự thanh thản, tĩnh tại cho mình, đó lại là cách ứng xử tích cực.

7. Nhận định về vẻ đẹp thanh cao của triết lí nhàn dật trong lí tưởng sống của người xưa:

“Ông nhàn là người sống với tư cách là một cá nhân, chứ không phải với tư cách thành viên của một cộng đồng nào đó, là một con người có lạc thú, chứ không phải chỉ có chức năng, nghĩa vụ. Sống dưới chế độ chuyên chế theo Nho giáo, con người bị trói buộc bởi hai sợi dây: nghĩa và phận. Phận vạch ranh giới cho từng người, quy định mức cho mỗi người được ngồi, đứng, nói năng, xưng hô, ăn, ở. Nghĩa nhắc nhở mọi người có trách nhiệm đối với người trên kẻ dưới,… Trong xã hội tổ chức như vậy, con người không được coi mình là cá nhân - độc lập, có cái riêng của mình, không được nghĩ đến lạc thú. Do đó tìm nhàn dật là tìm cái vui cho thân tâm, tránh cái lụy hình dịch, là tìm thoát khỏi sự ràng buộc chặt chẽ mà vô hình của thể chế chuyên chế theo Nho giáo,… Ông nhàn tự coi mình là cá nhân không bị ràng buộc. Nhưng một mặt không thể coi cá nhân là cô độc, coi cái “tôi” là trung tâm. Cho nên cố tránh ràng buộc bằng cách từ bỏ danh lợi, không đi con đường công danh, giành phận vị, coi thường giàu nghèo, sang hèn, đứng ngoài sự ràng buộc của phận. Để có chút thoải mái đó, ông nhàn phải chủ động tự hạn chế: không cậy tài, yên phận, không tranh giành và không động lòng về lời khen, tiếng chê.”

(Trần Đình Hượu, trong Nguyễn Bỉnh Khiêm danh nhân văn hoá,

Bộ Văn hoá thông tin và thể thao xuất bản, H, 1991)

8. Vẻ đẹp cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ "Nhàn"

"Nhàn" là một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhàn theo quan niệm của nhà thơ là sống thuận lợi theo lẽ tự nhiên, không màng danh lợi. Bài thơ này là lời tâm sự về cuộc sống và sở thích cá nhân. Nó cũng đồng thời thể hiện một quan niệm nhân sinh độc đáo của nhà thơ.

Bài thơ mở đầu bằng những ngôn từ thật vô cùng giản dị:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Đó là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết biết bao. Câu thơ đ­ưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời "n­ước giếng đào, cơm cày ruộng". Cuộc sống tự cung tự cấp mà vẫn ung dung ngông ngạo tr­ước thói đời. Hai câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp cầu thơ nghe nh­ư nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bư­ớc: một... một... một...

Đến hai câu luận nhà thơ lại tiếp tục nhấn thêm một chút tình điệu thôn quê nữa để ng­ười đọc cảm nhận thực sự đ­ược cái vui của "cuộc sống nhàn":

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thư­ờng, vậy mà hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm "sang trọng" biết bao. Nó chăng những không gợi ra vẻ gì khắc khổ mà còn toát lên toàn bộ vẻ thanh cao. Thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi đư­ợc hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.

Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế, rất giản dị, rất tự nhiên mà vẫn thanh cao và thú vị vô cùng. Nếu chỉ đọc bốn câu thơ miêu tả về cuộc sống, chúng ta có thể nghĩ ngay đến hình ảnh một bậc danh nho đang muốn lánh đời. Thế như­ng trở về với hai câu thực, chúng ta sẽ hiểu hơn cái quan niệm "lánh đời" của nhà thơ:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Ng­ười khôn, người đến chốn lao xao.

Vậy ra, Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu như­ơng đầy những ganh tị, bon chen. Hai câu thơ diễn ý bằng nói ngư­ợc. Vì thế nó tạo cho ng­ười đọc một liên t­ưởng thật hóm hỉnh, sâu cay. Câu thơ đúng là trí tuệ sắc sảo của một bậc đại quan - trí tuệ để nhận ra cái khôn và cái dại thật sự ở đời. Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:

R­ượu đến cội cây, ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Hai câu thơ chẳng biết đang vẽ cảnh đời hay tiên cảnh. Ở đó nhân vật trữ tình cũng không biết đang tỉnh hay mơ. Tất cả cứ hòa cùng làm một d­ưới cái nhãn quan tỏ tư­ờng và thông tuệ của nhà thơ.

BÀI VĂN MẪU :

Nguyễn Bỉnh Khiêm là 1 nhà tri thức nho học lỗi lạc của nước ta thế kí 16, , được tôn làm trạng trình. Ông là người có khi tiết, có nhân cách, có trí tuệ hơn người. Nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm người ta thường nghĩ đến triết lí sống nhàn như 1 kiểu phản ứng với thời thế nhiễu nhương. Tác phẩm  “Nhàn”  được rút trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi” một tác phẩm nói lên được quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ vẽ ra một nhà trí sĩ, ẩn sĩ với lối sống nhàn  

Nhàn là một chủ đề lớn trong thơ chữ Hán và rất đậm nét trong thơ chữ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhàn là nhàn nhã, thảnh thơi không vướng bận hay còn có thể hiểu là thuận theo tự nhiên, là đối lập với lợi danh, người ẩn sĩ sẵn sàng để rẻ công danh chỉ nhầm đổi lấy nhàn. “Nhàn” chính là một triết lí sống của tri thức thời trước. Với tác giả, lối sống đó cũng là một cách để lánh đục tìm trong. Khi về nhà, thi nhân có điều kiện rộng mở tâm hồn mình, hòa vào cuộc sống thiên nhiên nơi thôn quê, vượt lên mọi thế tục tầm thường

Hai câu thơ đầu mở ra hoàn cảnh sống thanh nhàn của người tri sĩ ẩn dật.

                                       Một mai, một cuốc, một cần câu

                                       Thơ thẩn dầu ai vui thú nào      

Cách dùng số đếm “Một…một …một…”, cùng cách ngắt nhịp chậm 2/2/3 diễn tả trạng thái ung dung, thanh nhàn của kẻ sĩ khi trở về thôn quê. Đi kèm với số từ là danh từ : mai, cuốc, cần câu là dụng cụ lao động của nhà nông, câu thơ đưa người đọc trở về với cuộc sống chất phác, nguyên sơ, dùng mai để đào đất, cuốc để xới đất trồng rau. Tuy nhiên, câu thơ không diễn tả sự vất vả, khổ cực mà là một thái độ ung dung,là niềm vui, niềm hạnh phúc trong cuộc sống lao động hàng ngày. Từ “ thơ thẩn “ chính là sự thảnh thơi, tự do, được tận hưởng cuộc sống, được làm điều mình thích, hòa mình vào với cuộc sống thôn quê mặc cho những ai chạy theo danh lợi, còn ta vẫn kiên định lối sống ung dung, thư thái với thú chơi lành mạnh, tao nhã.

Ở hai câu thực, người đọc sẽ hiểu rõ hơn được quan niệm sống của tác giả

                                      Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

                                 Người khôn người tới chốn lao xao

Tác giả đã khẳng định sự đối lập giữa quan niệm sống của “ ta “ và “ người “. Ta thì ta muốn sống tại nơi “vắng vẻ” là một miền thôn dã, yên tĩnh, là một chốn thiên nhiên thuần khiết thanh thản. Người thì tới những “chốn lao xao”, nơi ồn ã, xô bồ, nơi mà có sự bon chen cướp đoạt danh lợi, có khi là hàng hùm để chém giết hại lẫn nhau. “Ta” bỏ đi những cái danh hão, chỉ mong được trở về với thôn quê sống cuộc sống giản dị,dù có là người “dại” còn người “khôn” người bon chen, thi nhau vào vòng danh lợi Nhưng ai dại? Ai mới là khôn? Như vậy, Nguyễn Bình Khiêm mới là người tỉnh táo, dứt khoát bỏ nơi quyền quý hỗn tạp để làm bạn với thiên nhiên, đây cũng là phản ứng của tác giả đối với thực tạ, xã hội rối ren và cũng là để thể hiện trí tuệ uyên thâm, thấu hiểu quy luật cuộc đời

                                   Thu ăn măng trúc đông ăn giá

                                   Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao  

Câu thơ luận như 1 lời tâm sự mộc mạc, tự nhiên về cách sinh hoạt của tác giả. Sự đạm bạc là những món ăn dân dã lấy từ thiên nhiên như “măng trúc”,  “giá đỗ” ,mùa nào thức ấy. Việc ăn đã vậy, việc tắm cũng rất tự nhiên : tắm hồ, tắm ao. Tuy nhiên, đạm bạc giản dị không phải là khắc khổ, hơn nữa, khi nhắc tới “trúc, sen” người đọc có thể liên tưởng tới phẩm trong sạch của quân tử : ngay thẳng như truc, trong sạch như sen. Hai câu thơ như là bức tranh hiện lên cảnh sinh hoạt bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông đủ mùi vị, màu sắc. Có thể nói, hai câu luận đã thể hiện rõ cái thú của con người khi được sống hòa mình với thiên nhiên, nhịp sống của con người đã thích nghi được với nhịp sống của thiên nhiên

Nhàn không chỉ thể hiện ở lối sống mà còn thể hiện ở triết lí sống

                                 Rượu đến cội cây ta sẽ uống

                                 Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Từ “rượu”  được đưa lên dầu cầu khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành 1 nhịp để thấy được tư thế ung dung, nhâm nhi thưởng thức hương vị của cuộc sống. Trong 2 câu kết, còn được viết theo lối dụng điển quen thuộc. Trong lời thơ của tác giả có nhắc tới rượu nhưg không phải là đẻ say, cũng không cần vào mộng mà vẫn biết phú quý chỉ là tựa chiêm bao. Giọng thơ nhẹ nhàng, thể hiện tác giả là 1 con người coi thường công danh, coi thường các thế tục tầm thường. 2 câu kết như khẳng định về trí tuệ uyên thâm, vô cùng tỉnh táo nhìn cuộc sống, ông chọn cách sống để giữ gìn phẩm chất hơn là hủy hoại nó.

Bài thơ “Nhàn” được viết bằng các ngôn từ giản dị, cô đọng nhưng giàu ý vị. cách ngắt nhịp thơ linh hoạt, giọng điệu vừa hóm hỉnh, vừa thăng trầm sâu sắc, kết hợp với các hình ảnh trong bài thể hiện tư tưởng nhàn dật, thanh cao. Là con người nhập thế, phải lựa chọn lối sống ẩn dật. Về nhàn là để cho nhân cách không bị vấy bẩn, để vượt qua khỏi vòng danh lợi, Như vậy, dù có chọn lối sống nhàn thì đối với nhà thơ vừa không nhàn tâm lại vẫn có thể lo cho việc đời, việc nước

Bài “Nhàn” tiêu biểu cho đặc điểm thơ của Nguyễn Bình Khiêm. Ngôn từ giản dị nhưng hàm súc, giàu ý nghĩa, đậm đà tính triết lí về dại khôn, về danh lợi. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được 1 trí tuệ lớn, 1 nhân cách lớn và quan niếm sống của thi nhân còn có tác dụng hướng ta tới niềm thanh tịnh của tâm hồn, bồi đắp cho con người thêm tri thức.

III. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ "Nhàn".

4. Củng cố:

- Khái quát lại nội dung của chữ “nhàn” trong bài thơ.

- Vẻ đẹp nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm.

5. Dặn dò

- Đọc thuộc bài thơ. Sưu tầm những câu thơ thể hiện triết lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 13/12/2017

Tiết 87-88.

NHÀN (2)

-Nguyễn Bỉnh Khiêm-

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc bài thơ Nôm đường luật giàu triết lí.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Trân trọng và học tập nhân cách sống cao đẹp của NBK; lựa chọn được cho mình một thái độ sống tích cực.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành luyện đề.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ "Nhàn".

Bài làm :

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

 

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.

 

Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :

                                     Một mai, một cuốc, một cần câu

                                     Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền

 

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản : 

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá 

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo Lão, « thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :

Rượu đến cội cây ta sẽ uống 

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :

Ở thế mới hay người bạc ác 

Giàu thì tìm đến, khó thì lui 

(Thói đời)

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

 

Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

Đề 2.

Vẻ đẹp lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”. 

Gợi ý:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề quan tâm trong bài viết: vẻ đẹp lối sống nhàn hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi.

- Phân tích những khía cạnh của vẻ đẹp lối sống nhàn trong bài thơ:

+ Nhàn là “Một mai, một cuốc, một cần câu” trở về với cuộc sống thuần hậu, chất phác của một ‘lão nông tri điền” đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn (tạc tỉnh canh điền). Con người trí thức có danh vọng đương thời đã tìm thấy niềm vui trong công việc lao động, làm bạn với cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Mai để đào đất, cuốc để xới vun và cần câu để câu cá. Cách dùng liên tiếp 3 danh từ kết hợp với một số từ “một” đứng đầu cho thấy cái gì cũng đã có, đã sẵn sàng. Những vật dụng gắn với công việc lấm láp, vất vả của người nông dân lao động đi vào trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn có cái thanh nhàn thư thái riêng của một người tự tại, có thể làm gì tùy theo sở thích cá nhân bởi lẽ mai, cuốc, cày... là để “Cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà - Nào của nào chăng phải của ta”.

+ Nhàn là “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá”, mùa nào thức nấy. Những sản vật ở đây không phải là cao lương, mĩ vị mà dân dã, mang màu sắc thôn quê. Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng có cái thú của nó. Phải chăng đây là những món ăn thanh đạm, “ăn giá tuyết, uống băng đông” (Xuân Diệu) của con người muốn hòa mình vào tự nhiên như nhiều lần Nguyễn Bỉnh Khiêm từng viết: “Măng trúc còn tươi bếp mới sôi” (Bài 10), “Bếp trà hâm đã sôi măng trúc” (Bài 41)? Sinh hoạt của người nhàn dật cũng rất thoải mái, tự nhiên (‘‘Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”). Chuyện ăn uống, tắm táp, làm lụng... đã trở thành nhàn trong cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhiều lần thơ Trạng Trình có những cử chỉ, hành động... mang dáng dấp rất đỗi đời thường mà vẫn thanh cao như vậy: “Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích - Hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao”.

+ Con người đã tìm thấy niềm vui, sự ưng ý thanh thản trong cuộc sống đó “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Hai chữ “thơ thẩn” là trạng thái thảnh thơi, “vô sự’, trong lòng không còn gợn chút cơ mưu tư dục của con người. Trong tương quan với “thú nào” của “dầu ai” kia, nhàn đã trở thành một thú có dư vị và sức hấp dẫn riêng đối với nhà thơ, tạo nên âm điệu chung cho tất cả tác phẩm: nhẹ nhàng, lâng lâng: “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách - Được thú ta đà có thú ta”.

+ Nhàn là “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ - Người khôn, người đến chôn lao xao”. “Nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” mang ý nghĩa biểu tượng. “Chốn lao xao” chính là chốn quan trường, chốn giành giật tư lợi, sang trọng, tấp nập ngựa xe quyền quý, kẻ hầu người hạ, bon chen luồn lọt hãm hại nhau. Những âm thanh “lao xao” xe xe ngựa ngựa ấy một người tự nhận là “dại” như Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy “ngại bước chen” (“Thấy dặm thanh vân ngại bước chen”; “Nép mình qua trước chốn lao xao”; “Ngõ hạnh đưa người chân ngại chân”). Còn “nơi vắng vẻ” là nơi tĩnh tại của thiên nhiên, nơi tâm hồn tìm thấy sự thảnh thơi, nơi “Cửa vắng ngựa xe không quýt ríu”. Vậy cái “dại” và “khôn” ở đây thật ra là cách nói ngược, thâm trầm ý vị, vừa tự tin, tự cho mình là “dại”, người là “khôn”, vừa hóm hỉnh pha chút mỉa mai. Sự khôn, dại ấy trở lại trong bài thơ số 94: “Khôn mà hiểm độc là khôn dại - Dại vốn hiền lành ấy dại khôn”.

+ Nhàn là “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống - Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Không chỉ xa lánh danh lợi mà dường như còn cười cợt cả cái chốn lao xao lo giành giật nó, rốt cuộc chỉ như giấc mơ dưới gốc cây hòe. Hai chữ “nhìn xem” biểu hiện một thế đứng cao hơn, dường như đã tiên liệu ngay từ khi chọn lối sống của một con người luôn tự cho mình là “dại”. Nhịp ngắt 2/5 của câu thơ cuối cùng gợi cảm nhận phú quý chỉ là một giấc mơ mà thôi. Đúng là “Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa!”.

- Kết lại nội dung phân tích: Lối sống nhàn trong bài thơ không đơn thuần là “giải pháp tình thế'’, do hoàn cảnh ngẫu nhiên mà con người có. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông chủ động chọn lối sống nhàn. Sự chủ động ấy trong cuộc đời biểu hiện ở việc xin từ quan khi dâng sớ chém lộng thần không có kết quả. Trong bài thơ này, dấu ấn của sự chủ động hiện ra ở việc dứt khoát chọn cho mình một niềm vui riêng, một cách sống riêng so với những “giá trị” khác mà số đông đang theo đuổi. Ngay từ những câu thơ đầu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xác định “Thơ thẩn... nào” thì “thơ thẩn” với “thú nhàn” đã là một cách chọn lựa vượt lên vô vàn những “thú nào” của bất cứ ai. Sự chọn lựa cũng dứt khoát, quyết liệt trong cách sống: “Ta dại... lao xao”. “Ta” kiên định với chọn lựa của ta đầy tự tin. Chủ động trong thế “Rượu... chiêm bao”. Có người đang đứng trên phú quý, vượt ra ngoài “lực hấp dẫn” của phú quý để “nhìn xem” và cười cợt về nó. Như vậy nhàn không chỉ là tâm thế sống, niềm vui sống mà còn là một quan niệm sống, một triết lí sống.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Hiện thực cuộc đời trong cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”.

4. Củng cố:

- Khái quát lại nội dung của chữ “nhàn” trong bài thơ.

- Vẻ đẹp nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm.

5. Dặn dò

- Đọc thuộc bài thơ. Sưu tầm những câu thơ thể hiện triết lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 14/12/2017

Tiết 89-90.

NHÀN (3)

-Nguyễn Bỉnh Khiêm-

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc bài thơ Nôm đường luật giàu triết lí.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Trân trọng và học tập nhân cách sống cao đẹp của NBK; lựa chọn được cho mình một thái độ sống tích cực.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành luyện đề.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1.

Hiện thực cuộc đời trong cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”.

Gợi ý :

Từ cuộc sống của bản thân, của người không xuất mà xử, không hành mà tàng, nhà thơ triết lí về cuộc đời với lẽ sống nhàn.Hiện thực cuộc đời, vì thế không phải là nội dung chính yếu của bài thơ. Tuy nhiên, người đọc vẫn thấy thấp thoáng trong mỗi lời thơ hình ảnh của cuộc đời trong cái nhìn thấu lẽ nhân sinh của nhà nho Trạng Trình.
- Ở giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam bước vào thời kì khủng hoảng trầm trọng, sự rạn nứt của những quan niệm, suy nghĩ, những chuẩn mực lẽ sống đã tạo nên sự phân hóa chính trong tầng lớp nho sĩ. Một bộ phận nho sĩ theo thời, chạy theo vòng danh lợi; một bộ phận nho sĩ thất vọng, chán chường trước những luân lí xã hội, những rường cột một thời phôi pha. Những lựa chọn xuất xứ của họ chia thành hai ngã rẽ: về nơi vắng vẻ hay đua chen chốn quan trường, chốn thị phi, đó là những lựa chọn không giống nhau của những người dù cùng xuất thân trong tầng lớp nho sĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đối lập “ta” với “người” trong bài thơ, sự đốì lập ấy ít nhất cũng phần nào phản ánh hiện thực đó.

+ Cuộc sống của người nho sĩ ở ẩn trong bài thơ trước hết là cuộc sống của chính tác giả. Giọng kể, lời tả trong bài thơ không phải là viết về một cuộc sống trong tưởng tượng, đó là cuộc sống thực. Mai, cuốc, cần câu... là những “đồ vật” được nhắc đến trong thơ như những sự vật hiện hữu thường xuyên, sẵn có, tuyệt nhiên không làm cho nhân vật trữ tình trở thành lão nông tri điền ngay lập tức. cốt cách thanh cao, sang trọng và cái nhìn thấu lẽ đời của nhân vật trữ tình không thể là của người chỉ biết cấy cày vụ mùa. Có thể thấy nhân vật này với một vị thế bao quát một phạm vi hiện thực lớn, nhìn mà thấu tỏ rồi. Cái quy luật “phú quý tựa chiêm bao” không phải là cái nhìn phát hiện lần đầu. Từ xưng hô “ta” trong bài thơ vì thế đầy ảnh hưởng, có sức lôi kéo, đó không phải là cái “ta” đơn độc. Đó là cái “ta” đại diện cho những nhà nho chân chính lánh đục về trong ở giai đoạn bấy giờ.

 Sân khấu chính của cuộc đời với những đua chen danh, lợi không chiếm vị trí chính yếu trong nội dung văn bản. Tuy nhiên, điều đó không làm cho những phản ánh về mảng hiện thực này trở nên nhạt nhòa trong lời thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Không gian “chốn lao xao”, nhân vật “người khôn”, cuộc sống “phú quý”... những từ ngữ định danh ấy có sức chở mang rất lớn trong một bài thơ bát cú Đường luật. Tính chất giễu nhại của các yếu tố ngôn ngữ mang ý vị bình luận, đánh giá về sự “dại”, “khôn”... làm cho lời thơ có cấu trúc đối thoại.

Đề 2.

Anh (chị) hiểu quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? Vì sao nói bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lí? 

Gợi ý :

1. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống thuận theo tự nhiên: “Dẫu nhẫn chê khen dầu miệng thế - Cơ cầu tạo hóa mặc tự nhiên”. Nhàn là đốì lập với danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”, giữ cốt cách thanh cao. Nhàn là triết lí, là thái độ sống, là tâm trạng. 

-    Tuyết Giang Phu Tử yêu và trọng nhân cách, về với thiên nhiên, sống thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên, khoáng đạt. Nhân cách ấy rất thuần hậu và thanh cao. Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như môt lão nông với bữa cơm đạm bạc, với những sinh hoạt dân dã.

-    Nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ - Người khôn, người đến chốn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ là nơi không người cầu cạnh, nơi tĩnh lại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. Người đến chốn lao xao là đến chôn cửa quyền sang trọng, tấp nập nhưng cũng là chôn hoạn lộ nhiều thủ đoạn bon chen, sát phạt.

-    Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, nhà thơ vui, niềm vui thất lên thành lời: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Niềm vui như hiện lên trong bưóc đi ung dung, niềm vui chi phôi cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng.

2. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lí. Trạng Trình đã đem đến cho văn học Việt Nam một phong cách triết gia. Bài thơ Nhàn là cảm hứng nhàn mà cũng là triết lí nhàn.

-    Triết lí nhàn thể hiện qua quan niệm của tác giả về dại và khôn. Đó là triết lí sâu sắc mà hóm hỉnh trong cách nói đùa vui ngược nghĩa, dại mà thực chất là khôn còn khôn mà hóa dại. Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “Khôn mà hiểm độc là khôn dại -Dại vốn hiền lành ấy dại khôn” (Thơ Nôm - bài 94). Như vậy thì dại, khôn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

-    Triết lí nhàn của nhà thơ là trở về sống hòa hợp với tự nhiên, phủ nhận danh lợi. “Rượu đến cội cây ta sẽ uống - Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Bậc đại ẩn sống Tuyết này tìm đến say chỉ là để tỉnh. Tỉnh để nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm triết lí với mục đích tự cảnh tỉnh mình nhưng lại có tác dụng cảnh tỉnh người đời.

Đề 3.

Hai tác phẩm “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi và “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều viết về cuộc sống ẩn dật. Bằng những hiểu biết về thời đại và cuộc đời nhà thơ, anh, chị hãy phân tích làm rõ quan niệm sống trong hai tác phẩm.

Gợi ý :

1. Nét chung

- Cả hai nhà thơ đều có lòng vì nước, vì dân.

- Cả hai đều rũ bỏ danh lợi, về ở ẩn, hoà đồng với thiên nhiên để di dưỡng tinh thần.

2. Vẻ đẹp riêng

- Giới thuyết hoàn cảnh ra đời của hai bài thơ.

- Trong bài thơ  Cảnh ngày hè, trong cái nhìn của Nguyễn Trãi, cảnh sắc thiên nhiên rạo rực, căng tràn, ngồn ngộn sức sống, thể hiện tình cảm mãnh liệt của nhà thơ với đời, với người. Đặc biệt, câu mở đầu bài thơ cho thấy, ở Nguyễn Trãi, cảnh nhàn nhưng tâm không nhàn. Cái nhàn của Nguyễn Trãi trong Cảnh ngày hè là cái nhàn bất dắc dĩ. Tấm lòng của Nguyễn Trãi là tấm lòng ưu quốc, ái dân sâu sắc, thường trực, cuồn cuộn. Làm sao để dân giàu, nước mạnh là ước mơ, là nỗi trăn trở suốt đời của Nguyễn Trãi.

- Trong bài Nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vui trọn với thiên nhiên. Cảnh vật trong thơ ông hiện lên yên bình, thanh thản. Hình tượng nhân vật trữ tình hiện lên trong tâm thế nhàn tản, ung dung, sống với những điều bình dị, sẵn có nơi thôn dã. Thái độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là không vướng bận việc đời, coi thường công danh. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cái nhàn của người đã thoát vòng tục luỵ, đã giác ngộ được quy luật thời thế “công thành thân thoái”.

3. Lí giải sự khác nhau

- Không phải Nguyễn Trãi không thấu hiểu quy luật “công thành thân thoái”, nhưng thời Nguyễn Trãi là thời khởi đầu nhà Lê, đất nước ta vừa độc lập sau hơn hai mươi năm đô hộ của giặc Minh, tình hình còn nhiều khó khăn nhưng mang tiềm lực phát triển, rất cần có bàn tay hiền tài kiến thiết. Tấm lòng của Nguyễn Trãi là tấm lòng nhân nghĩa dạt dào, ưu quốc ái dân nhưng không được tin dùng nên ông phải trở về. Dù sống giữa quê hương trong cảnh nhàn rỗi, vui với cảnh đẹp và cuộc sống thôn quê nhưng tấm lòng ông vẫn luôn hướng về đất nước, nhân dân. Ông không cam tâm nhàn tản để an hưởng riêng mình mà chấp nhận xả thân cống hiến cho đất nước.

- Không phải Nguyễn Bỉnh Khiêm không quan tâm đến thế sự so với Nguyễn Trãi, mà thời đại của ông là thời trước Lê Trung Hưng, là giai đoạn chế độ phong kiến đã suy tàn, nhiều thối nát, rối ren. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có nhều cố gắng giúp nước, giúp dân nhưng vẫn không thay đổi được cục diện. Lời thơ “ta dại – người khôn” thể hiện thái độ mỉa mai của Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho xã hội. Tuy về ở ẩn, không làm quan những ông vẫn giúp nước bằng những lời khuyên sáng suốt cho các thế lực phong kiến đương thời.

II. BÀI TẬP VỀ NHÀ

Bàn luận về chữ “Nhàn” trong hai bài thơ : “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi và “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

4. Củng cố:

- Khái quát lại nội dung của chữ “nhàn” trong bài thơ. Vẻ đẹp nghệ thuật của bài thơ Nôm.

- Vẻ đẹp nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm.

5. Dặn dò

- Đọc thuộc bài thơ. Sưu tầm những câu thơ thể hiện triết lí nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.

Ngày soạn : 20/12/2017

Tiết 91-92.

NHÀN (4)

-Nguyễn Bỉnh Khiêm-

A-MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức:

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

2. Kĩ năng:

- Biết cách đọc bài thơ Nôm đường luật giàu triết lí.

3. Tư duy, thái độ, phẩm chất:

- Trân trọng và học tập nhân cách sống cao đẹp của NBK; lựa chọn được cho mình một thái độ sống tích cực.

4. Định hướng phát triển năng lực

- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

B-CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

GV: SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

HS: SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

C- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

Gv kết hợp phương pháp đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành luyện đề.

D- TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp:

Lớp

Thứ (Ngày dạy)

Sĩ số

HS vắng

10A8

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra bài tập về nhà của HS.

3. Bài mới:

I. BÀI TẬP VẬN DỤNG

Đề 1. Phân tích bài thơ “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) để thấy được vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ.

Bài làm :

“Thơ khởi phát từ lòng người ta”, chứa đựng biết bao nhiêu rung cảm, trăn trở nơi người cầm bút. Một tác phẩm thơ chân chính, muốn vượt lên sức mạnh của thời gian, của lòng người, ẩn chứa trong đó những tình cảm thật, suy nghĩ thật và phải được viết lên từ mồ hôi và nước mắt của nhà thơ. Với “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã gửi tới người đọc những quan niệm, triết lí sâu sắc về con người, thời đại mà cho đến tận ngày nay người ta vẫn phải suy ngẫm.

Cũng giống như Nguyễn Trãi, sống giữa một thời đại loạn lạc, đầy biến động, nơi mà các giá trị truyền thống đạo đức bị đảo lộn, con người trở nên vị kỉ hơn, vụ lợi hơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với cuộc sống nơi thôn dã, vui với việc “cày nhàn câu vắng”, tự mình thích thảng với lòng mình, tạm quên hết sự đời “dầu ai vui thú nào”. Gửi chí hướng về nơi thôn dã, cuộc sống của thi nhân nơi thôn quê hiện lên như một “lão nông chi điền”

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Bài thơ mở đầu bằng phép liệt kê kết hợp với điệp từ “một” đã gợi mở ra một cuộc sống đơn sơ, chất phác với những công cụ lao động quen thuộc của người dân quê. Một cuộc sống thuần phác, giản dị với “mai”, “cuốc” và “cần câu” nhưng an nhàn và thanh tao. Đặc biệt, hai chữ “thơ thẩn” kết hợp với nhịp thơ 2/2/3 một cách tài tình, đã gợi ra chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa chốn thôn quê dân dã. Đó là dáng điệu ung dung, thu thái của một nhà thơ, cũng là nhịp điệu cuộc sống thường nhật của nhân vật trữ tình. Thanh thản, tự tại là tâm thế con người đã xác định được lẽ sống của mình, rời xa cõi trần tục, lòng không vướng bận xung quanh. Câu thơ cũng là lời bày tỏ thái độ cự tuyệt đời sống thị thành, chối bỏ mọi sự nhập cuộc, tự tách mình khỏi thế nhân trụy lạc để giữ khí thiết thanh tao.

Trở về với cuộc sống thuần phác, chân chất, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp tục cụ thể hóa bằng một đời sống tinh thần và lề lối sinh hoạt hòa hợp với thiên nhiên. Ông nương theo quy luật đất trời, thuận theo thời tiết bốn mùa

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Các nguyên liệu cho đời sống, không gian sinh hoạt đều rất bình dị, đơn sơ với “măng trúc”, “giá” là những món ăn dân dã sẵn có trong tự nhiên; “ao”, “hồ” là những bến nước thôn quê đơn sơ và bình dị. Đó là sự thể hiện một lối sống, một thái độ xử thế cầu nhàn không hề kham khổ mà trái lại nó toát lên vẻ thanh cao của nhân vật trữ tình. Con người giờ đây đã hòa hơp với thiên nhiên bốn mùa, với sự luân chuyển luân chuyển của thời gian và không thể tách khỏi thiên nhiên.

Như vậy, với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhàn trước hết là một cách sống. Cùng với “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi, ông đã khẳng định một lối sống thanh tao của các bậc hiền tài giữa cảnh đất nước suy tàn, loạn lạc: rời xa cõi trần phàm tục để tìm về với thiên nhiên, sống một cuộc sống giản dị, thuần phác để giữ tâm hồn được thư thái, thanh sạch.

Thi nhân đau đớn, phê phán thế thái nhân tình, đạo lí suy vi và tìm đến sự hòa giải nội tâm bằng một lối sống gián cách với cõi đời. Đã hơn một lần, ông lên tiếng chối bỏ lối sống đô hội thị thành, sống một cuộc sống tự tại, không đua tranh

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.

Bằng nghệ thuật đối rất chỉnh, tác giả đã đối lập giữa cái “vắng vẻ” với “chốn lao xao”, giữa “ta” với “người”. Cái “lao xao” đó chính là nơi trần tục đầy những sự nhân vi, toan tính, bon chen mà Nguyễn Bỉnh Khiêm từng chiêm nghiệm, chán ghét và thể hiện trong nhiều bài thơ khác: “Thành thị vốn đua tranh giành giật”; “Vật vờ thành thị làm chi nữa”; “Đường lợi há theo thị tỉnh”… Đối lập lại, ông đề cao lối sống dân dã, thanh đạm, kiệm cần, đề cao “nơi vắng vẻ” và rất mực coi trọng tinh thần tự tại bằng một lối nói khiêm nhường “Ta dại…”. Đương nhiên, đó là một lối sống mới mẻ, có sự hấp dẫn bởi vẻ đẹp đạo lí, cách biệt với “thói đời”. Nếu nhìn cuộc sống ấy theo quan niệm đạo đức nhà nho một chiều, người ta không dễ dàng chấp nhận những mầm mống lối sống mới đó. Trên tất cả, ông đã hòa giải được những phức tạp nội tâm bằng tinh thần tự tại và thái độ gián cách với thế tục, đứng trên thế tục. Nhưng xét đến cùng, đó mới chính là cái khôn của bậc đại trí, quay lưng lại với danh lợi, sống một cuộc sông an nhàn để giữ cho tâm hồn thư thái.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chứng kiến và chiêm nghiệm lẽ đời, đã đi đến cùng của sự khôn dại để thấu hiểu và tìm ra triết lí “nhàn” – cũng là triết lí nhân sinh sâu sắc

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Thi nhân đã nhắc đến giấc mộng dưới cây hòe của Thuần Vu Phần để thức tỉnh một chân lí: của cái, vật chất chỉ là ảo mộng, như một giấc chiêm chiêm bao, bất chợt đến rồi lại bất chợt đi. Phải trải qua tất cả cảnh đời, trường đời như thế rồi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đạt tới thế ứng xử văn hóa mang tinh thần triết lí về nhàn dật và tự tại. Một tinh thần nhàn dật và tự tại như thế nhiều khi biểu lộ cách nói hơn là hành động thực, một giải pháp tình thế hơn là chí hướng cả đời người, một sự độc tôn tâm trạng bất đắc dĩ hơn là khả năng tìm ra lối thoát tối ưu. Bởi xét đến cùng, giữa một xã hội đâu đâu cũng là hư danh, phú quý phù du, mấy ai được như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Trãi để nhìn thấy lẽ đời, sự đời, để gìn giữ khí tiết thanh tao. Nhân vật trữ tình đã tìm đến cái say để tỉnh, dùng mộng để nói thực và thốt lên những chiêm nghiệm sâu sắc. Cũng như chính thi nhân đã bày tỏ rõ ràng trong Bài tựa tập thơ Am Bạch Vân: “Ôi, nói tâm là nói về cái chỗ mà chí đạt tới vậy, mà thơ lại là đề nói chí. Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, có kẻ chí để ở sự nhàn dật. Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chí thích nhàn dật, lấy cảnh núi non sông nước làm vui…”

Có thể nói, nhàn là một chủ đề rất phổ biến trong thơ ca trung đại, là một nét tư tưởng văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt là tầng lớp trí thức. Sống nhà dật với tự nhiên để tu dưỡng nhân cách, đem lại thú vui tao nhã cho con người. Biết sống sống nhàn, biết tìm thú nhàn là cả một học thuyết triết học lớn. Bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm in đậm dấu ấn tinh thần con người cá nhân trước một thời đại mất phương hướng, chao đảo, loạn lạc, nhiều đổi thay. Đặt trong tương quan với nhiều tác phẩm thơ văn khác, các sáng tác của ông hàm chứa tính phức hợp của cung bậc tâm trạng. Thi nhân đã đưa ra nhiều cách thức hình dung về cuộc đời, soi nhìn cuộc sống từ nhiều góc cạnh, tự đặt mình trong mỗi tình huống cụ thể mà bài thơ “Nhàn” chỉ là một chiêm nghiệm riêng. Điều này đặt ra yêu cầu tiếp nhận thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm cần được xem xét trong tính tổng thể song cũng phải chú tới mối liên hệ giữa các đường hướng tâm trạng phù hợp với từng cảnh đời và chặng đường đời cụ thể.

Như vậy, khép lại bài thơ, người đọc vẫn còn vương vấn cuộc sống an nhàn, thanh tao, giản dị mà Nguyễn Bỉnh Khiêm coi đó là cách sống, là triết lí sống sâu sắc: vinh hoa phú quý chỉ là phù du, như một giấc mộng, rời xa chốn hư danh phàm tục đó để giữ khí tiết thanh sạch mới là bậc đại trí. Điều đó đã làm nên sức sống trường tồn bất diệt của tác phẩm trước sức mạnh của dòng thời gian và đời người.</