MỤC LỤC
- Nguyễn Thi sinh năm 1928, mất năm 1968, bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn, tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca
- Quê quán: xã Quần Phương Thượng (nay là xã Hải Anh), huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
- Ông mồ côi cha từ năm mười tuổi, mẹ đi bước nữa, ông sống nhờ vào họ hàng nên vất vả, tủi cực từ nhỏ
- Năm 1943, ông theo người anh vào Sài Gòn, vừa đi làm kiếm sống vừa tự học
- Năm 1945, ông tham gia cách mạng rồi gia nhập lực lượng vũ trang. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông làm công tác tuyên huấn, vừa chiến đấu vừa hăng hái hoạt động văn nghệ
- Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội
- Năm 1962, ông tình nguyện trở lại chiến trường miền Nam, công tác tại Cục chính trị quân giải phóng miền Nam, là một trong những thành viên sáng lập và phụ trách tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng
- Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
- Sáng tác của Nguyễn Thi bao gồm nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết. Sau khi ông hi sinh, tác phẩm của ông được sưu tập và in lại trong Truyện và kí (xuất bản năm 1978), Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập (4 quyển, xuất bản năm 1996)
- Phong cách sáng tác:
+ Bắt nguồn từ hiện thực nóng bỏng, ác liệt ở mặt trận miền Đông Nam Bộ
+ Nhân vật trong sáng tác của ông là những người nông dân vùng Đông Nam Bộ, những con người với bản chất hồn nhiên, bộc trực, trung hậu vừa có lòng căm thù giặc sâu sắc; vô cùng gan góc, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì quê hương, vì độc lập, tự do của Tổ quốc
+ Năng lực phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, sâu sắc
+ Sáng tác của ông vừa giàu chất hiện thực, đầy những chi tiết dữ dội, ác liệt của chiến tranh, vừa đằm thắm chất trữ tình với một ngôn ngữu phong phú, góc cạnh, đậm chất Nam Bộ, có khả năng tạo nên những nhân vật có cá tính mạnh mẽ
Những đứa con trong gia đình là một trong số những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi, được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng
Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt, những đứa con trong một gia đình có nhiều mất mát, đau thương: cha bị Pháp chặt đầu hồi chín năm, mẹ vừa bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi hai chị em Chiến – Việt trưởng thành, cả hai đều giành nhau tòng quân. Nhờ sự đồng tình của chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ và ra trận.Trong trận đánh ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ và sáu tên Mĩ lẻ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại chiến trường khi còn ngổn ngang dấu vết của đạn bom và chết chóc. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình, về những người thân yêu như mẹ, Chú Năm, chị Chiến… .Đoạn trích thể hiện lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ hai. Tuy mắt không nhìn thấy gì, tay chân đau buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố gắng từng tí một lê về phía có tiếng súng của quân ta vì phía đó “là sự sống”. Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ sau ngày má mất. Cả hai chị em đều háo hức tòng quân, nhưng Chị Chiến nhất định giành đi trước vì cho rằng Việt chưa đủ 18 tuổi. Đến đêm mít tinh, Việt nhanh nhảu ghi tên mình trước. Chị Chiến chậm chân và “bật mí” chuyện Việt chưa đầy 18 tuổi. Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được tòng quân. Đêm hôm ấy, chị Chiến bàn bạc với Việt về mọi việc trong nhà. Việt răm rắp chấp nhận mọi sự sắp đặt của chị Chiến, vì Việt thấy chị Chiến nói giống má quá chừng.Sáng hôm sau, hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm. Việt cảm thấy lòng mình “thương chị lạ”. Sau ba ngày đêm, đơn vị đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến; sức khoẻ hồi phục dần. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị kể lại chiến công của mình. Việt rất nhớ chị, muốn viết thư nhưng không biết viết như thế nào vì Việt cảm thấy chiến công của mình chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và mong ước của má.
- Phần 1 (từ đầu đến “đang bắt đầu xung phong”): Việt bị thương ở chiến trường, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Lần thứ tư Việt tỉnh dậy, Việt lắng nghe mọi âm thanh, chờ đồng đội đến và sẵn sàng chiến đấu
- Phần 2 (còn lại): Kí ức của Việt về câu chuyện hai chị em tranh nhau đi tòng quân
Truyện kể về những người con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hướng cách mạng. Chính sự gắn bó sâu nặng giưa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giưa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo
- Nghệ thuật trần thuật (nghệ thuật kể chuyện) qua dòng hồi tưởng của nhân vật góp phần giúp nhân vật bộc lộ tính cách của mình và tác phẩm đậm chất trữ tình
- Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm chất Nam Bộ
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa gây ấn tượng mạnh đến người đọc, làm nổi rõ góc cạnh của cuộc sống
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Thi (tiểu sử, sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật..)
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm (hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung và nghệ thuật)
- Truyền thống yêu nước mãnh liệt, căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tinh thần chiến đấu cao đã gắn kết những con người trong gia đình với nhau. “Chuyện gia đình nó cũng dài như sông, để rồi chú chia cho mỗi đứa một khúc mà ghi vào đó”
+ Chú Năm: đại diện cho truyền thống và lưu giữu truyền thống
+ Má Việt: hiện thân của truyền thống. Đó là một con người chắc, khỏe, sực mùi lúa gạo và mồ hôi, thứ mùi của đồng áng, của cần cù sương nắng. Ấn tượng sâu đậm ở má Việt là khả năng cắn răng ghìm nén đau thương để sống và duy trì sự sống, che chở cho đàn con và tranh đấu.
- Lòng thủy chung son sắt với cách mạng
- Lời nói của chú Năm với cán bộ và với chị em Chiến, Việt cho thấy chú xem tòng quân là việc lớn, còn việc nahf chỉ là việc thỏn mỏn, chú ủng hộ việc hai chị em Chiến và Việt tòng quân. Đó cũng chính là sự tiếp nối truyền thống gia đình
- Tiếng hò của chú Năm:
+ Điệu hò giữa ban ngày
+ Một hiệu lệnh: hiệu lệnh tòng quân, hiệu lệnh lên đường
+ Lời nhắn nhủ tha thiết: lời nhắn nhủ truyền thống gia đình tới hai chị em Chiến, Việt
+ Lời thề dữ dội: lời thề thủy chung son sắt với cách mạng, với dân tộc
- Chú Năm – người lưu giữ, ghi chép cuốn sổ gia đình: ghi lại những đau thương, mất mát và ghi lại cả những chiến công
⇒ Chú Năm vừa là người lưu giữ, vừa là người truyền lại truyền thống gia đình cho những thế hệ sau
a) Nét tính cách chung của hai chị em
- Sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát, đau thương
- Hai chị em có chung mối thù với bọn xâm lược. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi thúc hai chị em cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba má, và có cùng nguyện vọng: được cầm súng đánh giặc. Tình yêu thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em.
- Cả hai chị em đều là những chiến sĩ gan góc dũng cảm
- Hai chị em Việt đều có những nét rất ngây thơ thậm chí có phần trẻ con (giành nhau bắt ếch nhiều hay ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc và giành nhau ghi tên tòng quân
b) Nét riêng ở hai chị em Chiến và Việt
- Chị Chiến: người lớn hơn Việt
+ Là người luôn yêu thương và nhường nhịn em, trừ việc đi tòng quân
+ Là người chị mang nhiều phẩm chất, vẻ đẹp của má khiến cho Việt trong đêm hai chị em chuẩn bị đi tòng quân có cảm giác “chị Chiến sao mà giống má”
+ Đảm đang, tháo vát, khôn ngoan trong cách thu xếp việc gia đình trước lúc đi tòng quân
- Việt: mang nét vô tư, hồn nhiên, tinh nghịch của cậu con trai mới lớn
+ Luôn tranh giành phần hơn từ chị: đi bắt ếch, giết giặc, đi bộ đội, ...
+ Thích những trò chơi hiếu động: bắn chim, câu cá, đi bộ đội vẫn mang ná thun
+ Đêm trước khi lên đường đi bộ đội, Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay”, rồi ngủ quên lúc nào không biết.
+ “Giấu chị như giấu của riêng” trước những lời trêu đùa của các anh trong đội.
+ Bị thương trên chiến trường, không sợ địch, không sợ chết mà chỉ sợ con ma cụt đầu, gặp lại anh em thì vừa khóc vừa cười như đứa trẻ “khóc đó rời cười đó”.
⇒ Việt và Chiến đã kế tục xuất sắc truyền thống của gia đình
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Xem thêm các bài tiếp theo bên dưới